mình không biết bạn cần đoạn nào nên mình đưa bạn cả bài , bạn cần đoạn nào thì cắt ra nhé
Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc. Sự nghiệp của Người đã để lại một di sản vĩ đại, đó chính là sự tự do, hạnh phúc, no ấm cho nhân dân. Vì thế, khi Người ra đi, để lại một nỗi tiếc thương vô bờ cho những người ở lại. Nhiều nhà thơ từ niềm xúc động chân thành đó đã thể hiện tình cảm sâu sắc với Bác qua những vần thơ sâu lắng. Và tác phẩm Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương với là một trong những vần thơ như thế. Tác phẩm là một khúc ca trữ tình, đượm một tình cảm nhớ thương, kính yêu mãnh liệt, sâu sắc với chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương viết năm 1976 (in trong tập Như mây mùa xuân – 1978), khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng xong, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện được mong ước ra viếng Bác. Bài thơ thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác. Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi đau xót khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác.
Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm sự miêu tả hoàn cảnh đến với Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng
Cách dùng từ “Con” tạo không khí thân thương cho khổ thơ. Đó vừa là cách dùng từ đặc trưng của người miền Nam khi xưng hô với người lớn tuổi, vừa gợi nên sự thân thương trong tình cảm gia đình. Bởi Bác Hồ “là Cha, là Bác, là Anh” (Tố Hữu). Cụm từ “miền Nam” gợi bao niềm xúc động: Miền Nam là nơi xa xôi, mảnh đất xưa cha ông đi mở cõi; là mảnh đất sinh thời Bác hằng khát khao mong nhớ: Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà- Miền Nam mong Bác nỗi mong cha. Câu thơ gợi lên tâm trạng đặc biệt thiêng liêng, đầy ý nghĩa của cuộc viếng lăng Bác. Đó là tâm trạng không chỉ của một người con, mà còn là tâm trạng của cả một miền Tổ quốc đã vắng mặt khi người cha chung của dân tộc ra đi. Đáng chú ý, thi nhân dùng từ “thăm” một cách thật tinh tế. Nó vừa giảm nhẹ nỗi đau đớn xót xa, vừa như khẳng định trong lòng mình: Bác Hồ, vị cha già kính yêu vẫn còn đó. Tâm thế của thi nhân lúc này như người con đi xa lâu ngày, nay được gặp lại bóng dáng người cha thân yêu.
Và trong niềm xúc động ban đầu ấy, cảnh vật đầu tiên của lăng Bác mà nhà thơ nhìn thấy chính là hàng tre bát ngát. Hàng tre có thực bên lăng Bác được nhìn với con mắt liên tưởng nhân hoá và tưởng tượng vì thế thành hàng tre xanh dân tộc “xanh xanh Việt Nam”; thành những chiến sĩ trung kiên bất chấp bão táp, mưa sa vẫn “đứng thẳng hàng”. Lăng Bác bỗng thật gần gũi, thân thuộc như một làng quê sau luỹ tre xanh. Ở đây, hàng tre còn mang ý nghĩa biểu tượng: một dân tộc cần cù, hiên ngang, mạnh mẽ, xếp thành hàng cùng với các chiến sĩ vệ binh canh giấc ngủ cho Người. Đến với Bác chúng ta gặp được dân tộc và nơi Bác yên nghỉ đời đời cũng xanh mát bóng tre của làng quê Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai, tác giả thể hiện tình cảm kính yêu sâu sắc của nhân dân với Bác. Điểm đáng chú ý của khổ thơ là những hình ảnh ẩn dụ sóng đôi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Mặt trời hàng ngày đi qua trên lăng là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, nguồn sáng lớn nhất rực rỡ vĩnh viễn của thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một mặt trời trong lăng rất đỏ. Bằng phép tu từ ẩn dụ nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực rỡ màu cách mạng, là nguồn sáng dẫn đường cho dân tộc. Câu thơ vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ, vừa ca ngợi công lao to lớn của Bác, vừa thể hiện sự tôn kính của nhân dân, của tác giả với Bác.
Hai câu sau của khổ thơ lại sử dụng một hình ảnh độc đáo:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ/ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Hình ảnh dòng người vào viếng lăng Bác được ví như một tràng hoa vô tận, mỗi người đang dâng lên Bác những đóa hoa lòng đẹp đẽ của mình. Hình ảnh tràng hoa còn mang ý nghĩa biểu tượng: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng mặt trời của Bác, đó là hoa của chiến công, hoa của thành tích. Phép hoán dụ: bảy mươi chín mùa xuân chính là để chỉ Bác Hồ, ngầm ngợi ca cuộc đời Người là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp. Hình ảnh hoán dụ này vừa đẹp vừa mới lạ, thể hiện tình cảm thương nhớ, kính yêu và sự gắn bó của nhân dân với Bác.
Nếu như khổ thơ thứ 2 thể hiện tình cảm của nhân dân, thì khổ thơ thứ 3 thể hiện trực tiếp tâm trạng của tác giả khi vào lăng, được nhìn thấy người cha già kính yêu:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên/ Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Hình ảnh mặt trời rực đỏ trong lăng được thay bằng vầng trăng sáng dịu hiền. Sự thay đổi ấy thể hiện rất nhiều ý nghĩa. Bác không chỉ là một người chiến sĩ cách mạng, là ngọn đuốc soi sáng đường cho dân tộc, mà nơi Bác còn có vẻ đẹp của một người lãnh tụ gần gũi, yêu thương con người; có vẻ đẹp của một thi sĩ hòa quyện chất thơ và chất thép trong những bài thơ viết về trăng của Người.
Đến hai câu thơ sau, tâm trạng thi nhân đã được bộc lộ trực tiếp:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Đây là những câu thơ hết sức chân thành, mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt của tác giả khiến cho câu thơ vượt lên ý nghĩa biểu tượng thông thường, đồng thời tạo nên một mạch liên kết ngầm bên trong. Với hình ảnh vầng trăng, mặt trời, trời xanh, dụng ý của nhà thơ muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời rực rỡ ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm, đó là những cái mênh mông, bao la bất diệt của vũ trụ được nhà thơ ví với cái bao la, rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó đều là những vật thể có ý nghĩa trường tồn gần như là vĩnh viễn nếu so với đời sống của mỗi cá nhân con người. Đó cũng là biểu hiện vĩ đại, rực rỡ cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác.
Mặc dù vậy, tác giả vẫn thốt lên: Mà sao nghe nhói ở trong tim. “Nhói” là cảm giác xúc động đến đau đớn. Đó là lời giãi bày rất thực, xuất phát từ những tình cảm mãnh liệt của nhân dân, đồng bào đối với Bác. Thông thường, trong hoàn cảnh tương tự, việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ là một thủ pháp nhằm giảm nhẹ nỗi đau tinh thần. Song ở đây, dường như nỗi đau quá lớn khiến cho những hình ảnh ẩn dụ trở nên không còn ý nghĩa, chỉ còn cách diễn tả trực tiếp tâm trạng mới có thể giúp nhà thơ giãi bày tình cảm của mình.
Khổ cuối khép lại với những giọt nước mắt của người con viếng Bác muộn:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt.
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, phải xa Bác, nỗi nuối tiếc dâng tràn nơi khóe mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một trạng thái xúc động tột độ, thể hiện cảm xúc thật chân thành, mãnh liệt.
Và theo đó là những niềm ao ước, những mong mỏi mãi mãi bên Người:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Cánh chim, nhành hoa, cây tre, tất cả chỉ là những sự vật nhỏ bé, bình dị, nhưng được ở bên lăng, ở quanh lăng, được gần vị chủ tịch kính yêu. Chim dâng tiếng hót, hoa dâng mùi hương, tre trung hiếu tỏa bóng lên giấc ngủ êm đềm của Bác. Hơn thế nữa, cách dùng từ « trung hiếu » như khẳng định một lời thề hứa sắt son, sẽ sống sao cho xứng đáng với công ơn của Bác, xứng đáng với dân tộc. Ước muốn đó thể hiện tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhà thơ, một người con Nam Bộ, nhưng đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam đối với Bác. Để diễn tả nỗi niềm riêng nhưng mang tình cảm khái quát chung ấy, tác giả đã viết một loạt câu thơ không chủ ngữ, nhấn mạnh ba lần điệp ngữ muốn làm như một khát vọng khôn nguôi. Đó là khát vọng của những người đã một lần được về thăm lăng, và của cả những người chưa một lần được đến thăm nhưng tấm lòng luôn hướng về Bác kính yêu.
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người.
Tóm lại, Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc. Chúng ta, con cháu của Bác xin nguyện như nhà thơ VP làm tiếng chim hót, làm bông hoa đẹp, làm cây tre trung hiếu và sẵn sàng làm muôn ngàn công việc tốt để kính dâng lên Người.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng..."
Bằng việc sử dụng cặp từ xưng hô con-bác , câu đầu của khổ 1 đã thay cho 1 lời chào, lời giới thiệu của tác giả về hành trình của người con phương xa từ miền Nam ra Hà Nội thăm Bác kính yêu. Cách xưng hô này mang đậm bản sắc dân của người dân Nam Bộ. Gợi đến những tình cảm thân thương, gần gũi. Tác giả tựa như một người con lâu ngày nay mới có dịp trở về thăm vị cha già đánh kính. Với từ "thăm" đây là 1 cách nói giảm, nói tránh để giấu đi những cảm xúc đau thương và mất mát về sự tahatj là Người đã ra đi mãi mãi. Dùng từ thăm như vậy để cho thấy rằng Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim của mỗi người. Về khuân viên lăng Bác tác gải thấy hiển hiện trong sương sớm hình ảnh hàng tre. Đây là hình ảnh vừa tả thực: tre là hình ảnh của quê hương thân thương yên bình. Đồng thời cũng còn là ẩn dụ- tre là biểu tượng của dân tộc Việt NAm, biểu tượng cho con người Việt Nam dẫu trải qua bao bão táp mưa sa, bao khó khăn gian khổ thì dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam vẫn kiên cường, bền bỉ, dẻo dai, vững vàng.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK