Nói đến thành phố Hổ Chí Minh là nói đến một thành phố lớn và đông dân nhất nước. Nơi đây, cuộc sống muôn màu muôn vẻ và sức sống cuồn cuộn trào dâng, tạo nên vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn rất đáng yêu. Có thể nói rằng người từ khắp các địa phương trong cả nước đều có mặt ở thành phố này, đem theo nhiều phong tục, tập quán khác nhau. Tuy vậy, nét chung nhất vẫn là tình yêu thiên nhiên, trong đó có tình yêu dành cho hoa - món quà đặc biệt mà Tạo hoá ban tặng cho con người.
Chợ hoa đêm thành phố Hổ Chí Minh trước đây họp ở đoạn đường Lê Thánh Tôn chạy qua cửa Bắc của chợ Bến Thành. Sau khi giải toả, chợ đã dời về đường Lí Thái Tổ, họp trong khu vực xung quanh trường Tiểu học Hổ Thị KI, cách mặt tiền đường khoảng hơn trăm mét. Màn đêm vừa buông xuống là xe chở hoa từ khắp các ngả đã đổ về chợ. Khung cảnh bốc dỡ hoa tuy ồn ào, náo nhiệt nhưng những người bốc vác vẫn cẩn thận, nhẹ nhàng nhấc từng thùng hoa, từng bó hoa to cỡ vòng tay ôm, được chẳng buộc kĩ càng xuống đất rồi chuyển vào các vựa bán sỉ. Hàng trăm loại hoa đủ hình dáng, sắc màu rực r3. Lay-Ơn màu hồng, màu đỏ... Huệ trắng toả hương thơm ngát. Cúc vàng, tím, nâu đồng, xanh nhạt... Loa kèn hồng phớt, vàng phớt điểm những chấm xinh xinh. Hoa đồng tiền đỏ tươi, vàng rực. Hoa cẩm chướng đơn, cẩm chướng kép đủ màu. Rồi thạch thảo, vi-ô-lét sắc tím nền nã, khiêm nhường bên cạnh hồng nhung, hồng vàng xinh đẹp, yêu kiểu. Sang trọng nhất là khu bán phong lan. Lan được đóng từng chục cành vào túi nhựa treo trên kệ hoặc xếp ngay ngắn trên bản đặt trước cửa mỗi vựa hoa. Hàng chục loại phong lan nhưng nhiều nhất là loại hai màu tím và trắng, mỗi cành có đến hơn chục bông, cánh hoa dày, tươi lâu, được người tiêu dùng ưa thích. Ngoài ra, các loại phong lan như lan hài, lan hoàng điệp, lan vũ nữ... và một số loại địa lan khác cũng được bày bán, đáp ứng nhu cầu chơi hoa của những người có thu nhập tương đối khá.
Những người mua hoa về bán lẻ rất đông. Họ có thể là chủ của những cửa hàng hoa sang trọng hay nhỏ bó ở khắp thành phố, mà cũng có thể là những phụ nữ từ ngoài miền Bắc, miền Trung vào, vốn liếng chỉ độ vài trăm ngàn, đủ mua một gánh hoa dăm bảy loại. Để sớm mai, các mẹ, các chị lại rong ruổi gánh bộ vào các khu dân cư lao động, bán lẻ từng bó hoa nhỏ kiếm vài chục ngàn tiền lời, góp nhặt gửi về quê nuôi các con ăn học. Từ chợ hoa đêm Lí Thái Tổ, hoa tươi sẽ toả đi muôn hướng, để rồi qua những đôi tay khéo léo, nâng niu, hoa được cắm thành những lẵng lớn nhỏ đặt ở nơi sang trọng như khách sạn, công sở, ngân hàng... hay được cắm vào những chiếc binh hoa xinh xắn của mỗi gia đinh, mỗi thiếu nữ yêu hoa. Con người từ ngàn xưa đã biết mượn hoa để thầm trao gửi tâm tư, tình cảm của mình đến đối tượng mà mình kính trọng hay thương mến.
Đi dạo chơi ở chợ hoa đêm, ta sẽ có cảm tưởng lạc vào một thế giới kì thú muôn sắc, muôn hương. Mọi vất vả, mệt nhọc ban ngày dường như tan biến, tâm hổn ta lâng lâng, thanh thản lạ thường! Mỗi loài hoa có một vẻ đẹp riêng, nhưng tất thảy đểu đáng yêu, đáng quý. Hoa âm thầm mang lại niềm vui cho con người và tô điểm cho cuộc đời thêm đẹp.
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
- Tết Nguyên Đán là thời điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới.
- Đây cũng là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội: giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý và tình nghĩa xóm làng...
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
- Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta. Tết Âm lịch, Tết cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Ọuốc khác. Nguyên nghĩa của chữ "Tết" chính là "tiết". Hai chữ "Nguyên Đán" có gốc chữ Hán: "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm. Cho lên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán" (Tết Nguyên Đán được người Trung Ọuốc ngày nay gọi là Xuân tiết, Tân niên hoặc Nông lịch tân niên).
- Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Dán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tet khác nhau.
- Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
- Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người là ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.
- Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng một cho đến hết ngày mồng ba.
2. Đặc điểm
- Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bẳt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.
- Cùng với thú treo tranh dân gian, câu đối thì cắm hoa, chơi hoa là yếu tố tinh thần cao quý thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân.
- Miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai, dây là hai loại hoa tượng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam.
- Ngoài ra còn có quất với trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc,...
- Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bánh trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả.
- Mâm ngũ quả ở miền Bẳc thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quýt), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác.
- Ngày tết có nhiều phong tục tốt như khai bút, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ.
- Ngày tết có tục mừng tuổi chúc tết. Trước hết con cháu mừng tuồi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích.
- Những ngày tết mọi người luôn cười nói, tay bắt mặt mừng thân thiện nhau, chúc nhau sức khoẻ, phát tài phát lộc và thường kiêng không nói điều rủi hoặc xấu xa.
3. Ý nghĩa
- Lễ theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm "ơn trời mưa nắng phải thì", người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần sấm, thần Nước, thần Mặt trời... người nông dân cũng không quên ơn nhừng loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.
- Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết. được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà ....được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu.
- Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình cảm gia đình, tình cảm thầy trò, bệnh nhân với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri...
- Tết cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã mất. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình đã thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Trong mỗi gia đình Việt Nam, bàn thờ gia tiên có một vị trí rất quan trọng.
- Người Việt Nam tin rằng những ngày Tốt vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Năm cũ đi qua mang theo những điều không may mắn và năm mới bắt đầu mang đến cho mọi người niềm tin lạc quan vào cuộc sống.
- Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn Cấp chỉ huy. Ngược lại, lãnh đạo cũng cảm ơn nhân viên qua những buổi tiệc chiêu đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết...
- Khơi gợi trong lòng con cháu Việt Nam lòng yêu nước và lòng biết ơn sâu sắc.
4. Các tục lệ trong đêm giao thừa
- Đi lễ chùa, đình, đền: lễ giao thừa ở nhà xong, mọi người cùng nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình. Nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
- Kén hướng xuất hành: khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
- Hái lộc: đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là “lấy lộc” cùa trời đất, Thân, Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
- Hương lộc: có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, . chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình. Ngọc lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
- Xông nhà: thường người ta kén một người "dễ vía” trong gia đình ra khỏi nhà từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái hành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người này sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà “dễ vía” người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết để người này đem lại may mắn vui vẻ quanh năm.
III. KẾT BÀI
- Tết Nguyên Đán vẫn là một sinh hoạt văn hóa vừa lưu giữ những giá trị truyền thống vừa thích nghi với nhịp sống hiện đại.
- Trong ngày Tết vẫn còn nhiều phong tục tốt đẹp và đậm tính nhân văn mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy để Tết Nguyên Đán mãi là nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
BÀI VIẾT THAM KHẢO BÀI VĂN 1
Tết nguyên đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Kinh cũng như đa số các dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Tết nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Đây cũng là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội: giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý và tình nghĩa xóm làng...
Ông Táo (thần bếp) là người theo dõi việc làm ăn cùa mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam làm mâm cơm tiền đưa “ông Táo". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của tết Nguyên dán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi sang trọng để chuẩn bị đón Tết.
Cùng với thủ treo tranh dân gian, câu đối thì cắm hoa, chơi hoa là yếu tố tinh thần cao quý thanh lịch của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai, đây là hai loại hoa tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài ra còn có quất với trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc,...
Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bánh trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, bưởi, quả cam (hoặc quýt), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao cuủ con người vì sự đầy đủ, sung túc. Ngày tết có nhiều phong tục tốt như khai bút, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ...Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ.
Ngày tết có tục mừng tuổi chúc tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà mẹ. Ông bà cùng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Những ngày tết mọi người luôn cười tay bắt mặt mừng thân thiện với nhau, chúc nhau sức khoẻ, phát tài phát lộc và thường kiêng không nói điều rủi ro hoặc xấu xa.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK