Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Bài thơ: " Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự...

Bài thơ: " Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lý. Hãy làm sáng tỏ. Giúp mình lập dàn ý với chi tiết nha

Câu hỏi :

Bài thơ: " Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lý. Hãy làm sáng tỏ. Giúp mình lập dàn ý với chi tiết nha

image

Lời giải 1 :

Em tham khảo dàn bài dưới đây nhé.

MB: _ Gới thiệu tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ " Nhàn"

_ Khẳng định bài thơ " Nhàn' của ông có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí.

TB :

2. Chứng minh

a) Bài thơ Nhàn làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm : yêu thiên nhiên, giản dị mà thanh cao.( Chất trữ tình trong tác phẩm )

– Yêu thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về sống giữa tự nhiên. Yêu đến độ hoà hợp, đến độ giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hai câu thơ là một bộ tranh tứ quý, có cảnh, có người, có mùi vị, có hương sắc. Con ngưòi thảnh thơi, vui thú với thiên nhiên, tận hưởng niềm hạnh phúc mà thiên nhiên mang lại. Vật chất có mà tinh thần cũng có. Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá đỗ, nhưng câu thơ “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá”, nói như Xuân Diệu là có cảm giác, “ăn giá tuyết, uống băng đông”. Cách viết tinh tế trong câu thơ là biểu hiện của sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên của tác giả.

– Tâm hồn Bạch Vân Cư Sĩ giản dị mà thanh cao. Trạng Trình về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, vói những công cụ lao động – mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nguyễn Bỉnh Khiêm dời bỏ chốn quan trường để về quê nhàn dật, tránh xa danh lợi. Dù không sống và lao động như một người nông dân bình thường thì Bạch Vân Cư Sĩ vẫn gần gũi với người dân cả trong đòi sống vật chất và tình thân.

Bậc đại ẩn trở về với cuộc sống chất phác, nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” (đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn), hết sức giản dị vói những thức ăn quê mùa, dân dã. Ăn đã vậy, còn ở, còn sinh hoạt ? Cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác. Đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh : “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” – vừa có nước xanh trong, vừa có hương thơm thanh quý.

 _ Qua toàn bộ thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta có thể thấy quan niệm sống nhàn của tác giả có nội dung phong phú và khá phức tạp. Nhàn là sống theo tự nhiên, sống hoà họp với tự nhiên cho tâm hồn thanh thản: “Dầu nhẫn chê khen dầu miệng thế – Cơ cầu tạo hoá mặc tự nhiên”. Nhàn là sống cho trong sạch : “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách”. Nhàn là sự phủ nhận danh lọi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”…

 _  Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, nhà thơ vui, niềm vui thất lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui như hiện lên trong bưóc đi ung dung, niềm vui chi phôi cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ “thanh thản, thoải mái một cách kì lạ. Đau khổ ư? Lo toan ư? Mệt mỏi ư? Trút sạch sành sanh” (Lê Trí Viễn, Đến với thơ hay, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.78).

b)- Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí. Trạng Trình đã đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách triết gia. Bài thơ Nhàn là cảm hứng nhàn mà cũng là triết lí nhàn.

- Triết lí nhàn thể hiện qua quan niệm của tác giả về dại và khôn. Đó là triết lí sâu sắc mà hóm hỉnh trong cách nói đùa vui ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hóa dại. Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại -Dại vốn hiền lành ấy dại khôn” (Thơ Nôm - bài 94). Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

 _Quan niệm sống " nhàn" của tác giả :

+Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế - Cơ cầu tạo hóa mặc tự nhiên”. Nhàn là đốì lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, giữ cốt cách thanh cao. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng.

+Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ - Người khôn, người đến chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh, nơi tĩnh lại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chốn lao xao là đến chôn cửa quyền sang trọng, tấp nập nhưng cũng là chôn hoạn lộ nhiều thủ đoạn bon chen, sát phạt.

_Triết lí nhàn của nhà thơ là trở về sống hòa hợp với tự nhiên, phủ nhận danh lợi. “Rượu đến cội cây ta sẽ uống - Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Bậc đại ẩn sống Tuyết này tìm đến say chỉ là để tỉnh. Tỉnh để nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí với mục đích tự cảnh tỉnh mình nhưng lại có tác dụng cảnh tỉnh người đời.

Kb : Khẳng định giá trị bài thơ.

 

Thảo luận

Lời giải 2 :

bài làm như hình

image
image
image

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK