Câu 1
Nghệ thuật nhân hóa : giấy đỏ buồn ko thắm ,mực đọng trong nghiên sầu
Tác dụng : làm cho câu thơ trở nên sinh động, sự vật được nói đến là giấy và nghiên mực trở nên có hồn, mang màu sắc tâm trạng như con người : giấy bút cũng biết buồn, biết sầu khi người đời dần quên lãng ông đồ xưa, quên đi tục chơi chữ trang trọng ngày nào.
Câu 2
Dựa vào đây mình phân tích biện pháp tu từ rồi
a) Ẩn dụ cách thức
" giải mã " các câu thơ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm ⇒ Những người đồng chí đã hi sinh tại sông Thạch Hãn trong cuộc kháng chiến
Cỏ tuổi hai mươi thành sông nước ⇒ Trẻ mà lập công lớn ( Tuổi trẻ tài cao )
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm ⇒ Mong sự yên nghỉ của những người chiến sĩ được vĩnh hằng qua ngàn năm, không ai làm phiền.
b) Ẩn dụ hình thức
Cho thấy sự tào bạo, không thương sót của con người bằng những hàng động thường nhật : vứt, bày, tìm.
Câu 3
Mình làm dàn ý nha
+ Trong thời kì phong kiến người nông dân rất khổ, họ bị bóc lột tàn bạo , phải chịu nhiều thứ thuế.
+ có người thì phải tự vẫn để tự giải thoát mình trước xã hội tàn bạo này
+ Có người thì phải lấy tính mạng cố gắng chống cự để có được một cuộc sống tốt
=> Mặc dù vậy nhưng học vẫn giữ được tính trong sạch , lương thiện của chính mình
Nocopy
Xin câu trả lời hay nhất
1,
Tác giả Vũ Đình Liên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa qua từ "buồn không thắm, đọng trong nghiên sầu". Sự lãng quên và thất thế của ông đồ xưa, của nền văn hóa Nho học xưa như lan tỏa cả không gian. Kết quả là, giấy đỏ vì nỗi buồn ấy mà dường như chẳng còn sắc thắm, mực thì đọng lại. Phải chăng, hình ảnh giấy đỏ và mực là nỗi buồn thương của chính tác giả. Nỗi sầu và buồn của tác giả lan toả khắp không gian và in hằn lên đồ vật, gợi ra thời kỳ chuyển giao của thời đại. Nỗi buồn ấy còn như thấm đượm cả không gian vì sự thay đổi thời thế của xã hội. Nhờ hình ảnh nhân hóa đặc sắc mà người đọc thấy được nỗi buồn sâu sắc và man mác của tác giả, của thời thế về sự chuyển giao của xã hội, ông đồ và những lớp người xưa cũ bị lãng quên.
3,
A, MB
- giới thiệu Nam Cao và truyện ngắn lão Hạc: Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất viết về số phận những người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Những tác phẩm nổi bật của ông là: truyện ngắn Chí Phèo, truyện ngắn Đời thừa, truyện ngắn Đôi mắt, truyện ngắn Lão Hạc,...Truyện ngắn Lão Hạc là truyện ngắn xuất sắc về người nông dân của Nam Cao, được đăng báo lần đầu năm 1943.
- giới thiệu Ngô Tất Tố và truyện ngắn Tắt đèn: Cùng chủ đề viết về người nông dân với Nam Cao, còn có nhà văn Ngô Tất Tố với truyện ngắn Tắt đèn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đời sống người nông dân sau cách mạng. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Ở trong cả hai tác phẩm, nhân vật lão Hạc và chị Dậu đều để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng sâu sắc về số phận khổ sở của người nông dân và những phẩm chất tốt đẹp của họ.
B, TB
1, Số phận
- Đầu tiên, số phận của những người nông dân như chị Dậu và lão Hạc đều gồm: số phận nghèo khổ, bế tắc mòn mỏi trong xã hội cũ. Lão Hạc vì không có tiền mà không cưới được vợ cho con trai. Chẳng những thế, vì nghèo khổ mà lão Hạc đã phải đưa ra quyết định để dành tiền và mảnh đất đưa hết cho ông giáo lo ma chay cho mình và trông nom cho đến khi con trai lão trở về. Cuối cùng, sau bao tháng ngày nghèo khổ phải ăn củ rong, củ dáy, lão Hạc đã chọn đến cái chết. Cái chết của lão chính là để bảo toàn tài sản cho con trai chưa trở về của mình. Còn chị Dậu, cũng phải chịu cảnh đói kém mà còn nặng sưu thuế khổ sở vô cùng. Vì nghèo mà chị Dậu phải bán con, bán chó để lo tiền sưu thuế cho chồng. Thế nhưng, chúng vẫn bắt chị phải nộp thuế cho người em chồng đã chết. Nhà chị vì không có tiền nộp mà chồng chị bị đánh đập dã man.
- Thứ hai, ở lão Hạc và chị Dậu, chúng ta còn thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của họ. Cái chết của lão Hạc chính là cái chết của sự bế tắc từ đói khổ, từ sự trừng phạt lương tâm mà lão dành cho mình. Hành động bán con, hay dám đứng lên đánh lại bọn cai lệ cũng chính là hành động của sự bế tắc bị dồn đến đường cùng của chị Dậu.
2, Vẻ đẹp
- Về những phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân, người đọc thấy được những phẩm chất chung ở hai nhân vật đó là: giàu tình yêu thương. Ở lão Hạc, vì yêu thương con mà lão Hạc đã dồn hết tình yêu thương lên kỷ vật của con trai là cậu Vàng. Đồng thời, cũng vì yêu thương cậu Vàng, lão Hạc đã cảm thấy đau đớn tột cùng khi phải bán nó đi. Tình yêu thương dành cho con trai, dành cho cậu Vàng của lão Hạc đều được biểu hiện bằng việc lo liệu bảo toàn tài sản cho con trai và chọn cái chết của lão Hạc.
- Còn ở chị Dậu, vì tình yêu thương hy sinh cho chồng, chị Dậu luôn có những cử chỉ dịu dàng, hiền dịu với chồng mình. Và cũng vì yêu thương chồng, chị Dậu còn dám đứng lên phản kháng lũ cầm quyền vừa là đàn ông vừa được pháp luật bảo hộ. Tình yêu thương chồng đã cho chị sức mạnh để chống lại lũ cầm quyền ác độc.
C, KB
Tóm lại, giá trị hiện thực của hai tác phẩm được biểu hiện bằng số phận khổ sở của những người nông dân. Đồng thời, người đọc cũng thấy được vẻ đẹp trong tính cách, tâm hồn của những người nông dân.
BÀI LÀM
Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất viết về số phận những người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Những tác phẩm nổi bật của ông là: truyện ngắn Chí Phèo, truyện ngắn Đời thừa, truyện ngắn Đôi mắt, truyện ngắn Lão Hạc,...Truyện ngắn Lão Hạc là truyện ngắn xuất sắc về người nông dân của Nam Cao, được đăng báo lần đầu năm 1943. Cùng chủ đề viết về người nông dân với Nam Cao, còn có nhà văn Ngô Tất Tố với truyện ngắn Tắt đèn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đời sống người nông dân sau cách mạng. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Ở trong cả hai tác phẩm, nhân vật lão Hạc và chị Dậu đều để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng sâu sắc về số phận khổ sở của người nông dân và những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Đầu tiên, số phận của những người nông dân như chị Dậu và lão Hạc đều gồm: số phận nghèo khổ, bế tắc mòn mỏi trong xã hội cũ. Lão Hạc vì không có tiền mà không cưới được vợ cho con trai. Chẳng những thế, vì nghèo khổ mà lão Hạc đã phải đưa ra quyết định để dành tiền và mảnh đất đưa hết cho ông giáo lo ma chay cho mình và trông nom cho đến khi con trai lão trở về. Cuối cùng, sau bao tháng ngày nghèo khổ phải ăn củ rong, củ dáy, lão Hạc đã chọn đến cái chết. Cái chết của lão chính là để bảo toàn tài sản cho con trai chưa trở về của mình. Còn chị Dậu, cũng phải chịu cảnh đói kém mà còn nặng sưu thuế khổ sở vô cùng. Vì nghèo mà chị Dậu phải bán con, bán chó để lo tiền sưu thuế cho chồng. Thế nhưng, chúng vẫn bắt chị phải nộp thuế cho người em chồng đã chết. Nhà chị vì không có tiền nộp mà chồng chị bị đánh đập dã man. Thứ hai, ở lão Hạc và chị Dậu, chúng ta còn thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của họ. Cái chết của lão Hạc chính là cái chết của sự bế tắc từ đói khổ, từ sự trừng phạt lương tâm mà lão dành cho mình. Hành động bán con, hay dám đứng lên đánh lại bọn cai lệ cũng chính là hành động của sự bế tắc bị dồn đến đường cùng của chị Dậu.
Về những phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân, người đọc thấy được những phẩm chất chung ở hai nhân vật đó là: giàu tình yêu thương. Ở lão Hạc, vì yêu thương con mà lão Hạc đã dồn hết tình yêu thương lên kỷ vật của con trai là cậu Vàng. Đồng thời, cũng vì yêu thương cậu Vàng, lão Hạc đã cảm thấy đau đớn tột cùng khi phải bán nó đi. Tình yêu thương dành cho con trai, dành cho cậu Vàng của lão Hạc đều được biểu hiện bằng việc lo liệu bảo toàn tài sản cho con trai và chọn cái chết của lão Hạc. Còn ở chị Dậu, vì tình yêu thương hy sinh cho chồng, chị Dậu luôn có những cử chỉ dịu dàng, hiền dịu với chồng mình. Và cũng vì yêu thương chồng, chị Dậu còn dám đứng lên phản kháng lũ cầm quyền vừa là đàn ông vừa được pháp luật bảo hộ. Tình yêu thương chồng đã cho chị sức mạnh để chống lại lũ cầm quyền ác độc.
Tóm lại, giá trị hiện thực của hai tác phẩm được biểu hiện bằng số phận khổ sở của những người nông dân. Đồng thời, người đọc cũng thấy được vẻ đẹp trong tính cách, tâm hồn của những người nông dân.
2,
Bài thơ "Lời người bên sông" của nhà thơ Lê Bá Dương như một lời tri ân đến sự hi sinh cao đẹp, vĩ đại của những người lính trong chiến dịch thành cổ Quảng Trị năm 1972. Những dòng thơ nhẹ nhàng nhưng để lại trong lòng bạn đọc nhiều ấn tượng và dư âm sâu sắc về sự hi sinh của những người lính trẻ. Do lọt vào ổ phục kích của giặc, biết bao nhiêu những người lính đã ra đi ngay trên chính dòng sông Thạch Hãn lịch sử năm xưa. Dù hòa bình đã được lập lại bao nhiêu năm nhưng sự ra đi anh dũng và nỗi đau của người ở lại vẫn còn đó. Tổ quốc được dựng xây và bảo vệ là nhờ vào máu xương và chiến công của những người lính vĩ đại năm nào.
Hai câu thơ đầu như một lời nói tâm tình ngắn gọn của tác giả với người đọc "Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm". Hình ảnh "đáy sông còn đó bạn tôi nằm" cho thấy một nỗi niềm đau xót của những người ở lại dành cho những người lính đã ra đi trong chiến dịch khốc liệt năm ấy. Con sông Thạch Hãn chứa đựng lịch sử và sự kiện đau thương năm nào, vẫn còn là chứng nhân, là nơi chôn cất những chiến công, những thi thể, dấu vết của những người lính anh dũng. Hai câu thơ tiếp theo viết nên như một lời ngợi ca nhưng chúng ta thấy được sự xót xa và biết ơn đối với những người lính ấy nhiều hơn. Hình ảnh "có tuổi hai mươi thành sóng nước" là một hình ảnh thơ xúc động. Những người lính trẻ đang ở độ tuổi 20 đã lên đường vì bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Họ chẳng tiếc tuổi trẻ của mình vì tình yêu đối với tổ quốc lớn hơn bao giờ hết. Tuổi 20 của họ ra đi nhưng đã để lại hòa bình cho dân tộc, cho đất nước, làm thành sóng nước bất tử nơi dòng sông Thạch Hãn về quá khứ lịch sử hào hùng mà đau thương, làm nên tượng đài bất tử về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Và họ đã hi sinh, đã ra đi mãi mãi, nhưng chiến công của họ thì vẫn còn ở đó, làm thành sóng nước "Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm". Những sự hi sinh của họ trên dòng sông Thạch Hãn lịch sử mãi được khắc ghi với trời đất, mãi trở thành tượng đài để người đời sau nhìn vào mà xúc động, mà biết ơn.
Tóm lại, bài thơ Lời người bên sông là một bài thơ hay và xúc động về chiến công của những người lính trẻ trên dòng sông Thạch Hãn. Người đọc thấy được giọng thơ bùi ngùi, đau xót cũng như biết ơn của tác giả, của nhân dân đối với những người lính anh dũng ấy.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK