I. Mở bài
- Khái quát về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vì sợ mất tiền vốn lẫn lời nên đã hứa khi nào Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế rồi đưa nàng ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lòng nàng. Thân gái một mình nơi đất khách quê người, Kiều sống một mình ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi, nhớ thương về người yêu và cha mẹ.
II. Thân bài
1. Cảnh thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích
- Không gian: rộng lớn với “non xa”, “trăng gần” ⇒ sự bát ngát của không gian càng làm cho con người trở nên cô đơn, lẻ loi.
- Từ “xa trông”: biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi.
- Không gian, vũ trụ bao la.
- Từ “khóa xuân”: Kiều ý thức được mình không còn trẻ tuổi, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xa.
2. Tâm trạng của Thúy Kiều trước không gian bát ngát, mênh mông.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
- Từ láy “bẽ bàng”: sự hổ thẹn, sự tự vấn, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều.
3. Nỗi nhớ của Kiều khi đứng trước lầu Ngưng Bích
- Kiều nhớ tới Kim Trọng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
+ Chữ “tưởng”: hồi tưởng, nhớ lại
+ Nhớ lại đêm thề nguyền dưới trăng: “chén đồng” – chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Thúy Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng.
+ Nhớ về Kim Trọng nên đau đớn hình dung ở Liêu Dương cách trở, xa xôi, chàng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn đang mong chờ tin tức và Kiều cảm thấy có lỗi:
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
+ Động từ “gột rửa”: diễn tả tấm lòng thủy chung, mối tình đầu đẹp đẽ không thể gột rửa được.
⇒ Nỗi nhớ người yêu da diết, đau đáu.
4. Nỗi nhớ cha mẹ
- Nếu nhớ đến Kim Trọng, Kiều “tưởng” thì nhớ đến cha mẹ nàng lại “xót”.
- Kiều xót khi cha mẹ già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con.
- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” và điển tích “Sân Lai”: nói lên tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
- Nhớ về cha mẹ, Kiều tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, cha mẹ không ai chăm sóc, đỡ đần lúc về già.
- Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: vừa nói về thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật.
- Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục “Nhớ ơn chín chữ cao sâu”.
⇒ Kiều là một con người hiếu thảo, thủy chung, vị tha, luôn nghĩ cho người khác trước khi nghĩ cho mình.
- Lí giải: Kiều nhớ đến người yêu trước khi nhớ đến Kim Trọng
+ Khi đặt chung giữa hai chữ tình và hiếu, Kiều đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha, Kiều đã phẩn nào đền đáp được công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng, trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng rất nhiều vào Kiều. Nhưng giờ đây, tấm thân của Kiều đã hoen ố, nên nàng càng ân hận và day dứt hơn.
+ Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí.
⇒ Thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Du.
⇒ Kiều hiện lên là một người con gái thủy chung, hiếu thảo và đầy lòng vị tha.
5. Kiều quay về với thực tại
- Tám câu thơ cuối là bức tranh cảnh vật được khắc họa qua điệp từ “buồn trông”.
- Mỗi cảnh vật đều mang những tâm trạng, sự khắc khoải riêng.
- Kiều càng lúc càng chìm đắm trong nỗi buồn của riêng mình.
- “Ầm ầm”: như dự báo những biến cố sẽ ập xuống đời Kiều sắp diễn ra.
* Nghệ thuật lấy cảnh làm nền cho con người đã làm toát lên nỗi cô đơn, vô vọng của Kiều trước vận mệnh của chính mình.
III. Kết bài
- Nội dung: Đoạn trích thể hiện nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ và sự lo lắng cho số phận lênh đênh của Kiều. Tấm lòng ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ
⇒ Đây là biểu hiện cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
- Nghệ thuật: ngôn ngữ độc thoại nội tâm, hình ảnh, từ ngữ tinh tế, tả cảnh ngụ tình.
học tốt nha ~ đừng quên cho mình ctlhn nhé !
A, MB
- GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM: Nguyễn Du chính là đại thi hào của dân tộc VN. Các tác phẩm của ông đều thể hiện được tấm lòng thương người và trải đời sâu sắc của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là Truyện Kiều đã thể hiện được bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của ông. Trong đó, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc đã thể hiện được hoàn cảnh tội nghiệp của nàng Kiều cùng bút pháp miêu tả tâm trạng nhân vật trên nền thiên nhiên tài tình của ông.
B, TB
1, 6 CÂU THƠ ĐẦU
Đầu tiên, sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích là những câu thơ đong đầ tâm trạng của Kiều. Từ trên lầu cao, trước mặt, nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay.
- Chỉ có lầu Ngưng Bích hoàn toàn khép kín đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Một mình đối diện với "mây sớm đèn khuya" khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho số phận ba chìm bảy nổi của mình.
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Vòng thời gian luẩn quẩn một chu kỳ mây sớm đèn khuya khiến cho Kiều tan nát cõi lòng "chia tấm lòng" mà đau khổ vì hoàn cảnh đáng thương của chính mình.
2, 8 CÂU THƠ GIỮA
- Tám câu thơ tiếp theo chính là nỗi nhớ thương và tình yêu của Kiều đối với gia đình và Kim Trọng. Hai câu thơ "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ". Kỷ niệm đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc nay hiện về trong tâm trí của Kiều.
- Đó là nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh trăng. Dù cho Kiều đã trao duyên cho em mình nhưng có lẽ nàng Kiều vẫn chưa thể quên đi tình yêu của mình. Nàng còn lo sợ cho chàng Kim chờ mong tin tức của mình trong vô ích. Càng thương nhớ chàng Kim bao nhiêu thì hai câu thơ tiếp theo thể hiện sự xót thương của Kiều cho chính số phận, cuộc đời của mình "Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai".
- Kiều không chỉ thương cho số phận ba chìm bảy nổi bơ vơ tột cùng của mình mà còn thương cho sự trong trắng, trinh bạch của đời mình đã bị phá hủy, không thể gột sạch được. Hình ảnh "tấm son" là hình ảnh ẩn dụ của tấm lòng trinh bạch của Kiều, nay đã chẳng thể trở về sự trong trắng nguyên vẹn, ấm êm ngày xưa. Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho bố mẹ của mình. "Xót người tựa cửa hôm mai/Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ". Hình ảnh "người tựa cửa" đó là hình ảnh của bố mẹ mà Kiều tưởng tượng đang đứng trông chờ nàng trở về.
- Hình ảnh "quạt nồng, ấp lạnh" và câu hỏi tu từ cho thấy nỗi lo lắng, bận tâm của Kiều về việc ai sẽ chăm sóc cho bố mẹ thay nàng. Nhớ về bố mẹ, ta thấy được nỗi đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi giờ đây, bố mẹ chẳng có ai để ủ ấm chăn vào mùa đông và quạt mát cho bố mẹ vào mùa hè nữa.
- Hai câu thơ "Sân Lai cách mấy nắng mưa/Có khi gốc tử đã vừa người ôm" có sử dụng điển tích "Sân Lai, gốc tử" cho thấy tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ nơi quê nhà. Hình ảnh "cách mấy nắng mưa" cho thấy sự cách biệt cha mẹ ở cả không gian và thời gian của Kiều. Ở nơi đất khách quê người, nàng không chỉ lo lắng cho cha mẹ mà còn cảm thấy đau đớn tột cùng, xót xa cho chính mình.
- Tóm lại, 8 câu thơ giữa bài thơ đã cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa đến tột cùng của nàng Kiều ở nơi đất khách quê người
3, 8 CÂU THƠ CUỐI
- Tám câu thơ cuối đã thể hiện được tâm trạng của Kiều cũng như bút pháp tả cảnh ngụ tình tài tình của Nguyễn Du.
"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
- Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện và tô đậm thêm tâm trạng và cảnh ngộ đáng thương của Kiều. Điệp ngữ "Buồn trông" đã nhấn mạnh được điều đó. Kiều nhìn cánh buồm thấp thoáng giữa biển khơi rồi liên tưởng tới cuộc đời vô định, trơ trọi của mình. Khi nàng nhìn những cánh hoa tàn nát trôi giữa dòng nước lũ thì nàng tự hỏi rồi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào. Khi nàng nhìn nội cỏ dầu dầu ảm đạm thê lương ấy, nàng thấy đau tê tái.
- Rồi "ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi" dường như là dự báo những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu nàng. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, "buồn trông" đến bốn lần trong một điệp ngữ và trong lời độc thoại nội tâm của nàng.
C, KB
Tóm lại, đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất Truyện Kiều. Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều vì thế mà đọng mãi trong lòng người đọc.
BÀI LÀM
Nguyễn Du chính là đại thi hào của dân tộc VN. Các tác phẩm của ông đều thể hiện được tấm lòng thương người và trải đời sâu sắc của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là Truyện Kiều đã thể hiện được bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của ông. Trong đó, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc đã thể hiện được hoàn cảnh tội nghiệp của nàng Kiều cùng bút pháp miêu tả tâm trạng nhân vật trên nền thiên nhiên tài tình của ông.
Đầu tiên, sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích là những câu thơ đong đầ tâm trạng của Kiều. Từ trên lầu cao, trước mặt, nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích hoàn toàn khép kín đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Một mình đối diện với "mây sớm đèn khuya" khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho số phận ba chìm bảy nổi của mình.
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Vòng thời gian luẩn quẩn một chu kỳ mây sớm đèn khuya khiến cho Kiều tan nát cõi lòng "chia tấm lòng" mà đau khổ vì hoàn cảnh đáng thương của chính mình.
Tám câu thơ tiếp theo chính là nỗi nhớ thương và tình yêu của Kiều đối với gia đình và Kim Trọng. Hai câu thơ "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ". Kỷ niệm đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc nay hiện về trong tâm trí của Kiều. Đó là nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh trăng. Dù cho Kiều đã trao duyên cho em mình nhưng có lẽ nàng Kiều vẫn chưa thể quên đi tình yêu của mình. Nàng còn lo sợ cho chàng Kim chờ mong tin tức của mình trong vô ích. Càng thương nhớ chàng Kim bao nhiêu thì hai câu thơ tiếp theo thể hiện sự xót thương của Kiều cho chính số phận, cuộc đời của mình "Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai". Kiều không chỉ thương cho số phận ba chìm bảy nổi bơ vơ tột cùng của mình mà còn thương cho sự trong trắng, trinh bạch của đời mình đã bị phá hủy, không thể gột sạch được. Hình ảnh "tấm son" là hình ảnh ẩn dụ của tấm lòng trinh bạch của Kiều, nay đã chẳng thể trở về sự trong trắng nguyên vẹn, ấm êm ngày xưa. Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho bố mẹ của mình. "Xót người tựa cửa hôm mai/Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ". Hình ảnh "người tựa cửa" đó là hình ảnh của bố mẹ mà Kiều tưởng tượng đang đứng trông chờ nàng trở về. Hình ảnh "quạt nồng, ấp lạnh" và câu hỏi tu từ cho thấy nỗi lo lắng, bận tâm của Kiều về việc ai sẽ chăm sóc cho bố mẹ thay nàng. Nhớ về bố mẹ, ta thấy được nỗi đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi giờ đây, bố mẹ chẳng có ai để ủ ấm chăn vào mùa đông và quạt mát cho bố mẹ vào mùa hè nữa. Hai câu thơ "Sân Lai cách mấy nắng mưa/Có khi gốc tử đã vừa người ôm" có sử dụng điển tích "Sân Lai, gốc tử" cho thấy tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ nơi quê nhà. Hình ảnh "cách mấy nắng mưa" cho thấy sự cách biệt cha mẹ ở cả không gian và thời gian của Kiều. Ở nơi đất khách quê người, nàng không chỉ lo lắng cho cha mẹ mà còn cảm thấy đau đớn tột cùng, xót xa cho chính mình. Tóm lại, 8 câu thơ giữa bài thơ đã cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa đến tột cùng của nàng Kiều ở nơi đất khách quê người.
Tám câu thơ cuối đã thể hiện được tâm trạng của Kiều cũng như bút pháp tả cảnh ngụ tình tài tình của Nguyễn Du.
"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện và tô đậm thêm tâm trạng và cảnh ngộ đáng thương của Kiều. Điệp ngữ "Buồn trông" đã nhấn mạnh được điều đó. Kiều nhìn cánh buồm thấp thoáng giữa biển khơi rồi liên tưởng tới cuộc đời vô định, trơ trọi của mình. Khi nàng nhìn những cánh hoa tàn nát trôi giữa dòng nước lũ thì nàng tự hỏi rồi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào. Khi nàng nhìn nội cỏ dầu dầu ảm đạm thê lương ấy, nàng thấy đau tê tái. Rồi "ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi" dường như là dự báo những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu nàng. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, "buồn trông" đến bốn lần trong một điệp ngữ và trong lời độc thoại nội tâm của nàng.
Tóm lại, đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất Truyện Kiều. Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều vì thế mà đọng mãi trong lòng người đọc.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK