Kim Lân, ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm từ trước và Cánh mạng thang tám 1945 kiệt xuất. Ông đã xây dựng nên những người nông dân yêu nước chân thật và giản dị. Trong đó có ông Hai thu. Ông đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai để rồi nói lên niềm tậm sự của mình theo tác phẩm "Làng" về cảnh người dân tản cư trong khán chiến chống Pháp, dù đó là những "đồng chí" rứt ruột ra đi từ bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó ông đã hóa than thành ônh Hai một cách thực sự.
Khi nhắc tới người nông dân Việt Nam thì ai cũng có thể liên tưởng đến sự cực khổ tận cùng dưới ách bóc lột của thực dân, song song với đó là lòng yêu sâu sắc, khắc vào tâm trí họ. Thật vậy, ông Hai là một người rất yêu nước, đặc biệt là yêu cái làng. Ông luôn nhớ về cái làng như "con nít nhớ cà rem", "cây kem nhớ tủ lạnh". Nhớ về những lúc cùng thanh niên làm việc "cùng hát hỏng, hông phèng, cùng đào, cùng cuốc, mê man suốt ngày". Ông tự nghĩ một mình rồi tự vui một mình, tự "thấy mình trẻ ra", "thấy náo nức hẳn lên". Tuy đã được tản cư vào khu yên ổn, không bom, khong mìn,nhưng ông vẫn canh cánh trong lòng, lo lắng, "không biết cái chòi gác ỡ đầu làngđã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm". Ông buồn, buòn hẳn đi, có lẽ ông tự trách mình không trẻ được để ỡ lại chống giặc như các anh các chị thanh niên. Da diết "chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá". Ông lão nhớ cái làng như đứa trẻ thèm khát sữa mẹ, luồng sữa ấm nồng được nuôi dưỡng từ tình yêu thương và dinh dưỡng của người mẹ. Còn ông, cái làng là nơi "chôn rau cắt rốn", là nơi ông sống từ lâu đời bấy lâu nay, là nơi tổ tiên ông định canh định cư bấy nhiêu đời, và cũng là niềm tự hào to lớn của ông. Niềm tự hào đó không dừng lại trước cái đình to lớn mà đi đâu ông cũng khoe mà cả con người ỡ đó, rồi cái sinh phần của ông Tổng đốc làng ông với những tản đá của ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày tượng đá bằng sứ của "Bát Tiên Quái Hải". Mỗi bận nói đến cái làng Chợ Dầu cua rông thì "hai con mắt sáng ra hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động". Giống, có lẽ giống với bản chất người nông dân thời bấy giờ, tình yêu làng chuyển sang và hình thành tình yêu nước mãnh liệt. Kim Lân cũng để nhân vật của mình tiến triển như vậy. Ông Hai háo hức hẳn lênkhi nghe tin thắng trận về từ người khác. Hôm đó, khi nghe anh quân nhân đọc báo về chiến công của cách mạng thì "ruột gan ông cứ nhãy múa lên, vui quá!". Tỉ lệ thuận với tình yêu nướclà sự căm thù giặc đến tận xương tủy đến. Và ngược lại nếu như người ta đặt quá nhiều niềm tin vào một thứ gì đó thì khi sụp đổ họ sẽ mất cân bằng, mất niềm tin và đau đớn sẽ tràn ngập. Khi ông càng yêu cái làng, tôn thờ, tự hào, hãnh diện bao nhiêu thì nó lại càng tủi nhục, đau đớn, xé lòng bấy nhiêu khi ông nghe tin " cả làng chúng nó Việt gian theo Tây" từ miệng người đàn bà ẳm con. Ông thực sự sốc, choáng váng "cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường chừng như đến không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ" ông như không muốn tin điều đó là sự thật. Có lẽ ông đã không tin nên cất tiếng hỏi gặn lại "liệu có thật không, hở bác? Hay là chỉ lại..." hay là chỉ lại nhầm lẫn, hay là chỉ lại chiêu chia gián của địch. Có lẽ ông đã tự phân minh, biện bạch cho bản thân mình. Ông đã tự tìm ngọn đuốc lẻ loi trong niềm tin của mình khi đã tan vỡ. Nhưng ngọn đuốc duy nhất và nhỏ bé ấy lại bị chính miệng người đàn bà đó dập tắt khi bà khẳng định chắc nịch rằng "thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên mà lại". Bất ngờ hơn nữa là "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác thần ra hoan hô. Thàng Chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, đưa vợ con len vị trí với giặc ngoài tỉnh mà lại". Tai hi vọng vụt mất ngay, nó biến mất nhanh quá. Ông Hai bàng hoàng chấp nhận sự thật ấy một cách chua xót....
I, Dàn ý tham khảo
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Kim Lân
+ Kim Lân là gương mặt tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
+ Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và mảng đề tài về nông thôn Vin gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống thôn quê nên hầu như Kim Lân chi viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Giới thiệu tác phẩm: Làng
+ “Làng” là một truyện ngắn tiêu biểu. Kim Lân sáng tác truyện ngắn này vào năm 1948, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Trong thiên truyện xuất sắc này, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật ông Hai.
- Giới thiệu khái quát về nhân vật ông Hai
B. Thân bài
1. Tình yêu làng sâu sắc
- Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, đó là một người nông dân có tình yêu làng quê sâu sắc, nhưng vì hoàn cảnh, ông buộc phải rời làng đi tản cư.
- Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn nhớ về làng Chợ Dầu quê ông và tự hào khoe làng ông là làng kháng chiến. Tình yêu làng của ông Hai đã được nhà văn đặt vào một tình huống đầy thử thách. Đó là tin đồn làng chợ Dầu mà ông vẫn tự hào đã làm Việt gian theo Tây. Người nông dân ấy đã trải qua tâm trạng dằn vặt, đau đớn, phải tự đấu tranh với chính mình để lựa chọn con đường đúng đắn. Từ tình huống có ý nghĩa thử thách ở nội tâm nhân vật nhà văn đã mở ra biết bao cung bậc cảm xúc của một tấm lòng yêu làng, yêu nước và những chuyển biến mới trong tâm hồn, tình cảm của người nông dân này.
2. Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin chợ Dầu theo giặc
a. Lúc mới nghe tin làng theo giặc
- "Cổ ông lão nghẹn ng hắn lại, da mặt tê rần rần, ông lão lặng đi đến không thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è như nuốt một cái gì vướng trong cô, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi". Trạng thái bàng hoàng, hụt hẫng này là phản ác tâm lý hết sức tự nhiên của một người quá yêu làng. Nếu không yêu thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc không thể gây chấn động mạnh tựa như một cú sốc tinh thần như thế với ông Hai.
- Song, ông Hai vẫn còn nghi ngờ chưa thể tin ngay lời đồn đại, ông lắp bắp hỏi lại: "Liệu có thật không hở bác, hay là chi lại ...". Ông hỏi lại để khẳng định cũng là để cố bấu víu vào một tia hi vọng rằng đó chỉ là sự nhầm lẫn là một lời đồn đại vô căn cứ. Nhưng khi cái tin được khẳng định từ những người tản cư thì ông Hai không thể không tin. Từ lúc ấy, tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt bởi mặc cảm là người làng Việt gian. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian bán nước "ông cúi gằm mặt xuống mà đi" ta nhận thấy trong cái cúi mặt này biết bao xấu hổ, nhục nhã, đau đớn. Nỗi nhục khiến ông không thể ngẩng đầu lên được.
b. Về đến nhà
- Về đến nhà, ông Hai càng tủi thân, thương con thương mình và thương cả nhữn người nông dân làng chợ Dầu vì mang tiếng là làng Việt gian: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lại cứ giàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư. Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?". Nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi người, ông Hai càng căm giận những kẻ Việt gian bán nước. Ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này".
=> Nhà văn Kim Lân đã sử dụng thật tài tình độc thoại để bộc lộ nỗi lòng nhân vật.
c. Khi ông Chủ tịch làng chợ Dầu lên tận nơi tản cư cải chính cái tin làng theo giặc, ông Hai đã sống trong sung sướng và hạnh phúc tột cùng.
- Ông lão "lật đật" đi hết nhà này đến nhà khác cứ "múa tay lên mà khoe" làng ông không theo giặc và nhà ông bị "Tây đốt nhẵn".
- Niềm vui sướng của ông Hai chính là được hi sinh tài sản cho Cách mạng và kháng chiến. Với ông, làng được trả lại danh dự cũng có nghĩa là danh dự của ông đã được minh oan.
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của tác phẩm
- Tình cảm của em dành cho nhân vật ông Hai, tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Kim Lân là gương mặt tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và mảng đề tài về nông thôn Vin gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống thôn quê nên hầu như Kim Lân chi viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Trong số những tác phẩm thành công về đề tài ấy, “Làng” là một truyện ngắn tiêu biểu. Kim Lân sáng tác truyện ngắn này vào năm 1948, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thiên truyện xuất sắc này, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật ông Hai. Đặc biệt, truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân mà đặc biệt là hai tình huống trên đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế tình yêu làng và diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Qua tình cảm và diễn biến tâm trạng ấy ta thấy được những chuyển biến mới trong đời sống tinh thần của người nông dân Việt Nam trong đó buổi đầu kháng chiến. Đó là sự hòa quyện, thống nhất giữa tình yêu làng quê với lòng yêu đất nước và tinh thần chống Pháp.
Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm, đó là một người nông dân có tình yêu làng quê sâu sắc, nhưng vì hoàn cảnh, ông buộc phải rời làng đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn nhớ về làng Chợ Dầu quê ông và tự hào khoe làng ông là làng kháng chiến. Độc đáo nhất, tình yêu làng của ông Hai đã được nhà văn đặt vào một tình huống đầy thử thách. Đó là tin đồn làng chợ Dầu mà ông vẫn tự hào đã làm Việt gian theo Tây. Người nông dân ấy đã trải qua tâm trạng dằn vặt, đau đớn, phải tự đấu tranh với chính mình để lựa chọn con đường đúng đắn. Từ tình huống có ý nghĩa thử thách ở nội tâm nhân vật nhà văn đã mở ra biết bao cung bậc cảm xúc của một tấm lòng yêu làng, yêu nước và những chuyển biến mới trong tâm hồn, tình cảm của người nông dân này.
Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đã được nhà văn Kim Lân thể hiện thật sinh động và tinh tế. Lúc mới nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai bàng hoàng đến sửng sốt "Cổ ông lão nghẹn ng hắn lại, da mặt tê rần rần, ông lão lặng đi đến không thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è như nuốt một cái gì vướng trong cô, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi". Trạng thái bàng hoàng, hụt hẫng này là phản ác tâm lý hết sức tự nhiên của một người quá yêu làng. Nếu không yêu thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc không thể gây chấn động mạnh tựa như một cú sốc tinh thần như thế với ông Hai. Song, ông Hai vẫn còn nghi ngờ chưa thể tin ngay lời đồn đại, ông lắp bắp hỏi lại: "Liệu có thật không hở bác, hay là chi lại ...". Ông hỏi lại để khẳng định cũng là để cố bấu víu vào một tia hi vọng rằng đó chỉ là sự nhầm lẫn là một lời đồn đại vô căn cứ. Nhưng khi cái tin được khẳng định từ những người tản cư thì ông Hai không thể không tin. Từ lúc ấy, tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt bởi mặc cảm là người làng Việt gian. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian bán nước "ông cúi gằm mặt xuống mà đi" ta nhận thấy trong cái cúi mặt này biết bao xấu hổ, nhục nhã, đau đớn. Nỗi nhục khiến ông không thể ngẩng đầu lên được. Phải chăng, ông Hai đã đồng nhất danh dự của ông với danh dự củ làng ông. Với ông, danh dự của làng cũng là danh dự của chính ông . Đây là nét tâm lý cộng đồng của người nông dân Việt Nam trong thời đại mới.
Về đến nhà, ông Hai càng tủi thân, thương con thương mình và thương cả nhữn người nông dân làng chợ Dầu vì mang tiếng là làng Việt gian: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lại cứ giàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư. Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?". Nghĩ đến sự khinh bỉ của mọi người, ông Hai càng căm giận những kẻ Việt gian bán nước. Ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Nhà văn Kim Lân đã sử dụng thật tài tình độc thoại để bộc lộ nỗi lòng nhân vật. Sự căm giận, nỗi tủi hổ, nhục nhã trong lòng người nông dân này không kìm nén nổi đã bật ra thành tiếng chửi. Trong nội tâm nhân vật ông Hai đã diễn ra một sự giằng xé giữa tin và không tin. Một mặt, ông Hai kiểm điểm lại từng người trong óc "họ toàn là những người có tinh thần cả mà". Ông tin những người ở lại làng không ai can tâm làm điều nhục nhã ấy. Nhưng rồi ông lại phân vân: "Thằng Chảnh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bia tạo ra những chuyện ấy làm gì". Nhà văn Kim Lân đã rất tinh tế khi phát hiện ra nét tâm lý nửa tin nửa ngờ ở nhân vật. Vì quá yêu làng nên ông Hai cố tìm một chút hy vọng để bấu víu. Nhưng rồi trước những chứng cứ hiển nhiên, ông đành cay đắng chấp nhận sự thật. Từ lúc ấy, nỗi nhục nhã lại sôi réo trong lòng ông: Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!". Ông Hai lại càng hoàng mang, lo sợ, sẽ tuyệt đường sinh sống khi nghĩ đến việc người ta sẽ không chứa, không buôn bán gì người làng Việt gian.
Đặc biệt, khi ông Chủ tịch làng chợ Dầu lên tận nơi tản cư cải chính cái tin làng theo giặc, ông Hai đã sống trong sung sướng và hạnh phúc tột cùng. Ông lão "lật đật" đi hết nhà này đến nhà khác cứ "múa tay lên mà khoe" làng ông không theo giặc và nhà ông bị "Tây đốt nhẵn". Cái nhà với người nông dân không chỉ là tài sản mà còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần. Vậy mà ông Hai lại sung sướng khoe Tây đốt nhà mình. Phải chăng việc nhà ông bị Tây đốt nhẵn chính là minh chứng hùng hồn cho thấy làng ông không theo giặc. Niềm vui sướng của ông Hai chính là được hi sinh tài sản cho Cách mạng và kháng chiến. Với ông, làng được trả lại danh dự cũng có nghĩa là danh dự của ông đã được minh oan.
Ông Hai là nhân vật tiêu biểu điển hình về người nông dân trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, người nông dân yêu làng, yêu nước, có niềm tin tuyệt đối vào cách mạng. Qua nhân vật ông Hai, ta thấy được nhận thức của người nông dân về cuộc kháng chiến và trong cuộc kháng chiến chống Pháp họ đã góp phần làm lên thiên sử vàng vẻ vang của dân tộc. Thấy được nghệ thuật miểu tả nhân vật tài tình của nhà văn Kim Lân cũng như tình cảm gắn bó, quý trọng người nông dân của nhà văn.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK