Trang chủ Ngữ văn Lớp 9 hãy nêu cảm nghĩ của em về nhân vật ông...

hãy nêu cảm nghĩ của em về nhân vật ông hai trong văn bản LÀNG hãy nêu cảm nghĩ của em về nhân vật anh thanh niên trong văn bản LẶNG LẼ SAPA

Câu hỏi :

hãy nêu cảm nghĩ của em về nhân vật ông hai trong văn bản LÀNG hãy nêu cảm nghĩ của em về nhân vật anh thanh niên trong văn bản LẶNG LẼ SAPA

Lời giải 1 :

văn bản  làng:ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .

Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: "Cả làng Việt gian theo Tây ". Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi "nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :"cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát".

Về đến nhà ông chán chường "nằm vật ra giường", nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra " chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?". Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ". Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả "có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ". Ông đau xót nghĩ đến cảnh "người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước".Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,"chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình", lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi...

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là "cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây".

Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn...

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:"Thế nhà con ở đâu?", "thế con ủng hộ ai ?". Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:"Nhà ta ở làng Chợ Dầu","ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !". Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong "anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ". Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt "chảy ròng ròng trên hai má". Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .

May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về "cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ". Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả." "Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người". Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm "Làng " xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

văn bản LẶNG LẼ SAPA:

Mở đầu câu chuyện, anh thanh niên hiện lên vô cùng rõ nét qua câu chuyện của bác lái xe và người họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ. Anh mới hai mươi bảy tuổi, một mình thích thú với công việc đo khí tượng trên đỉnh núi Yên Sơn cao hơn hai nghìn mét. Điều thú vị nhất ở anh chàng này là anh ta “thèm người”, sống một mình trên núi nên anh luôn muốn gặp con người dù chỉ một chút, anh muốn nhìn thấy họ, muốn nghe giọng nói của họ. Có khi anh còn để cây ngang đường để có thể gặp người nói chuyện vài câu.

     Khi lên đỉnh núi Yên Sơn cao ngất, ông họa sĩ và cô kĩ sư đã gặp một chàng trai “tầm vóc nhỏ nhắn, nét mặt rạng ngời”. Anh sống một mình trong căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, máy bộ đàm. Tuy anh sống một mình, nhưng chưa bao giờ anh buông thả bản thân, anh vẫn luôn chăm chút cho những góc riêng trong cuộc sống của mình. Anh trồng hoa, nuôi gà, anh mang lại cho cuộc sống của mình rất nhiều niềm vui. Khi có khách đột xuất anh hào hứng chào đón, giới thiệu với họ về cuộc sống của mình, đưa họ đi hái hoa và ca ngợi những người bạn khác cũng đang làm việc ở Sa Pa. Cuộc sống cô đơn đấy không làm anh bị mai mờ mà nó làm cho anh thanh niên được nổi bật hơn về những đức tính mà một người trưởng thành nên có.

     Anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, còn rất trẻ, chưa có người yêu đáng ra phải bay nhảy với cuộc sống, phải vui chơi ở phố phường nhộn nhịp. Anh lại chọn rời xa nơi thành thị ồn ào, rời xa gia đình để gắn bó với công việc vất vả mà vô cùng cô đơn này “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc đầy những khó khăn và nguy hiểm, đòi hỏi sự tỉ mỉ rất cao, vậy mà anh lại đam mê với nó. Công việc phải luôn canh đúng giờ, đối mặt với gió, bão, tuyết, hoang thú và sự cô đơn. Áp lực công việc không có ai để chia sẻ, với một người bình thường chắc họ đã buồn rầu mà sống chẳng có ý nghĩa, nhưng anh luôn sống trong tinh thần lạc quan, một trái tim ấm áp, yêu đời. Anh đã vui sướng biết bao khi kể về câu chuyện khi kịp phát hiện ra các đám mây khô mà từ đó quân ta đã hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

     Cuộc sống riêng của anh là khi không làm việc anh lại đọc sách, nó như người bạn tâm tình, sách mang đến cho anh niềm vui, sự sẻ chia, nguồn kiến thức bổ ích và thỏa tâm hồn ham nghiên cứu của anh. Anh rất khiêm tốn, khi biết họa sĩ muốn vẽ mình, anh đã từ chối, anh kể ra rất nhiều người khác phải hi sinh như thế nào, chứ mình không là gì cả. 



Thảo luận

Lời giải 2 :

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long là một tác phẩm đặc sắc, nhẹ nhàng, để lại trong lòng đọc giả nhiều rung động đẹp đẽ bởi hình ảnh “anh thanh niên”.

Anh thanh niên, với vóc người nhỏ nhắn, mang biệt hiệu “người cô độc nhất thế gian” vì anh phải làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm mây mù lạnh lẽo. Ngày này, anh chỉ cô độc, làm bạn vơi công việc “đo gió, đo mưa, đo nắng…” rồi mỗi ngày báo cáo về “nhà” bốn lần một cách chính xác. Những khắc nghiệt, băng giá của núi rừng Sapa, dù “mưa tuyết” hay “gió chực ào ào xô tới” chẳng thể nào khiến anh chùn bước. Tuy đấy là một công việc nhàm chán, buồn tẻ nhưng anh vẫn yêu, vẫn trân trọng cái nghề của mình. Anh đã dũng cảm vượt qua ngay chính nỗi cô độc và hiểm nguy luôn đối diện. Qua đó, chúng ta thấy toát lên một lý tưởng sống cao đẹp nơi anh. Vâng, giá trị đích thực ở con người anh là lẽ sống. Lý tưởng sống của anh cũng chính là lý tưởng sống của thế hệ thanh niên thời bấy giờ, luôn tìm được niềm vui giữa muôn khó khăn gian khổ.

Tác giả Kim Lân, một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, vốn gắn bso và am hiểu sâu sắc cuộc sống người dân ở nông thôn, các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cảnh sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của những người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được ông viết trong thời kì đầu của cách mạng Tháng tám, nhân vật chính của truyện là ông Hai, ông là một người rất yêu mến và gắn bó với ngôi làng Chợ Dầu của mình.

Ông Hai yêu cái làng Chợ Dầu của mình bằng một tình yêu rất đặc biệt, tình yêu của ông gắn bó với bất cứ một cảnh vật, con người nào trên mảnh đất quê hương này. Bởi thế mà khi chiến tranh xảy ra, phải đi tản cư ở nơi khác, ông khoe rất nhiều về làng của mình. Mỗi lần nói về làng Chợ Dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, náo nức lạ thường, “Hai con mắt sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động”. Ông yêu tất cả cảnh vật của làng ông nên rất tự hào mà kể từng thứ từng thứ, nào là “nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh”, đường trong làng “toàn lát đá xanh, trời mưa đi, bùn không dính đến gót chân”, con đường ấy “phơi thóc rơm thì thượng hạng”.

Cảm nhận của em về tình yêu làng của nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng

Trong con mắt của ông, cái gì của làng Chợ Dầu cũng to lớn và đẹp đẽ, đẹp hơn hẳn những thứ của thiên hạ, từ cái phòng thông tin triển lãm mà ông cho là “sáng sủa và rộng rãi nhất vùng”, co tới cái chòi phát thanh, đến cả cây lúa ngoài đồng. Bất kể của làng này cũng làm ông say mê, hãnh diện và tự hào. Vào thời kì kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, tình yêu làng của ông đã nhờ sự giác ngộ cách mạng mà lại thêm phần tự hào vì không khí cách mạng sôi nổi của làng.

Những ngày đầu kháng chiến, ông luôn tự hào vì việc làng của mình đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc. Khi ông phải cùng gia đình đi tản cư ở nơi khác, trong ông nỗi nhớ làng không nguôi, luôn nghe ngóng tin tức kháng chiến. Còn gì đau đớn và tủi nhục hơn khi ông nghe tin cả làng mình theo Tây, chính tình yêu sâu sắc của ông với quê hương đã làm cho ông đau đớn và nhục nhã đến thế “cổ ông cứ nghẹn hẳn lại, da mặt tê rân rân”, trên đường về nhà ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”, ông nằm vật ra mà nước mắt giàn giụa. Nhưng rồi chẳng bao lâu ông đã tìm lại được tình yêu đối với ngôi làng thân yêu của mình, cái tin đồn làng ông theo Tây chỉ là tin đồn thất thiệt.

Ông nghe tin cải chính, nghe rằng giặc nó đốt nhà ông mà ông lại sung sướng khoe rằng “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt sạch! Đốt nhẵn!”, ông vui mừng vì đó chính là minh chứng rằng làng ông không hề theo Tây. Ông đã không màng đến ngôi nhà – cả gia tài của ông bị đốt mà ông chỉ quan tâm rằng giặc đốt nhà ông chứng tỏ làng ông không phải Việt gian bán nước.

Qua truyện ngắn “Làng”, người đọc cảm nhận được một tình yêu làng quê thật cảm động trong nhân vật ông Hai. Ông không chỉ yêu làng mà còn tự hào, hãnh diện và luôn tin tưởng ngôi làng của mình. Tình yêu làng của ông Hai cũng chính là của người dân Việt Nam trong thời buổi bấy giờ.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 9

Lớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK