Trả lời :
Quân khu 3 là mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng; trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với tinh thần tự lực, tự cường, chiến đấu anh dũng, đóng góp sức người, sức của cùng quân dân cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ, nhân dân lực lượng vũ trang Liên khu 3 đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực đánh hơn 78. 600 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 nghìn tên địch, phá hủy và thu hơn 42.000 vũ khí các loại, hành trăm ngàn phương tiện chiến tranh.
Trong cuộc chiến đấu đánh trả máy bay, tàu chiến Mỹ, quân và dân Quân khu 3 đã phối hợp chặt chẽ với quân chủng Hải quân, Phòng không – Không quân tạo nên thế trận hiệp đồng rộng khắp, vừa có trọng điểm, đánh địch nhiều tầng, mọi hướng đạt hiệu xuất chiến đấu cao, đã cùng các lực lượng trên địa bàn đánh 39.450 trận, bắn rơi 1.526 máy bay Mỹ ( trong tổng số 4.181 máy bay bị bắn rơi ở miền Bắc), trong đó có 10 máy bay B52; 2 máy bay F111, bắt sồng nhiều giặc lái; bắn chìm, bắn cháy 75 tàu chiến các loại; tiêu diệt nhiều toán biệt kích Mỹ ngụy; rà phá, tháo gỡ gần 69.000 quả bom, mìn, thủy lôi; phá tan chiến dịch phong tỏa đường biển vào cảng Hải Phòng; lần lượt đập tan chiến dịch “Biển lửa”, “ Mũi lao lửa”, “ Rồng biển” của địch. Đặc biệt, đã cùng với quân, dân miền Bắc đánh đòn quyết định làm nên một “ Điện Biên phủ trên không” tháng 12/1972 đầy oanh liệt, đánh thắng hoàn toàn hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; đồng thời làm tròn trách nhiệm thiêng liêng, cao cả đối với miền Nam ruột thịt và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; đã có 1,2 triệu thanh niên, hàng chục sư đoàn, trung đoàn, hàng trăm tiểu đoàn, hàng chục vạn thanh niên xung phong, hàng trăm ngàn cán bộ các ngành tham gia nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Campuchia. Nuôi dưỡng hàng ngàn con em miền Nam tập kết, đào tạo trở thành những cán bộ, chiến sĩ phục sự nghiệp cách mạng; nuôi dưỡng 30 vạn thương binh, bệnh binh ở các chiến trường về hậu phương, góp phần to lớn cùng cả nước hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng CNXH.
Sau chiến thắng 30/4/1975, quân và dân Quân khu 3 đã nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đặc biệt từ năm 1975 đến năm 1984, quân và dân Quân khu 3 đã chi viện đắc lực về lực lượng, cơ sở vật chất trang bị kỹ thuật cho các tuyến phòng thủ ở biên giới phía Bắc, Đông Bắc, biển và hải đảo của Tổ quốc. Các tỉnh, thành phố đã tổ chức 40 trung đoàn tự vệ, dân quân với 37 vạn lượt người cùng các đơn vị chủ lực xây dựng các công trình quốc phòng; chi viện hàng nghìn tấn xi măng, sắt thép, hàng trăm ngàn ngày công… chi viện hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ trong đội hình hàng chục sư đoàn ra phía trước làm nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ biên giới. Trong những năm qua, quân và dân Quân khu không ngừng phát huy truyền thống, hoàn thành xất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là Quân khu có vị trí chiến lược trọng yếu của cả nước.
Trải qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, toàn Quân khu đã có 217.161 liệt sĩ; 97.618 thương binh, quân và dân Quân khu đã xây đắp nên và không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang “ Đoàn kết, chủ động, sáng tạo, hy sinh, chiến thắng”.
Từ năm 2000 đến nay đã có 08 đơn vị thuộc LLVT Quân khu được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân và Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, cụ thể là:
*Anh hùng LLVT nhân dân: Bệnh viện 5, Cục Hậu cần; Xưởng 10 Công binh, Bộ Tham mưu; Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 43, f395; Tiểu đoàn 25,Lữ đoàn 513; LLVT huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định, LLVT thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh
* Anh hùng lao động: Công ty xây dựng 319.
→Hết←
Chúc bạn học tốt
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên địa bàn Quân khu 3 ngày nay đã hình thành một số chiến khu cách mạng như: Chiến khu Quang Trung thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1945 theo sự chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Đảng gồm các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Chiến khu Trần Hưng Đạo hay còn gọi là (Đệ tứ Chiến khu hay Chiến khu Đông Triều), thành lập tháng 6 năm 1945, lúc đầu gồm Đông Triều, Chí Linh, Mạo Khê, Tràng Bạch. Đến đến cuối tháng 6 có thêm Kinh Môn, Thanh Hà, Thủy Nguyên, Uông Bí, Yên Hưng, và một phần Kim Thành, sau mở rộng tới Kiến An, Đồ Sơn, Quảng Yên, Hòn Gai.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Đến tháng 10 năm 1945, Chính phủ ra quyết định thành lập các chiến khu, (sau gọi là khu) trên toàn quốc. Trong phạm vi đồng bằng Bắc Bộ và phụ cận có 3 chiến khu là Chiến khu 2, Chiến khu 3 và Chiến khu 11. Chiến khu 2 gồm các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hà Đông, Lơn La, Lai Châu. Chiến khu 3 gồm các tỉnh: Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh và thành phố Hải Phòng. Chiến khu 11 chỉ có Hà Nội trực thuộc Trung ương: khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ Chiến khu 11 sáp nhập vào Chiến khu 2.
Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến ngày càng gay go, ác liệt; ngày 25 tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 120-SL thành lập Liên khu 3 trên cơ sở hợp nhất khu 2 và khu 3 và xác định rõ phương hướng cùng cả nước chủ động đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới, đánh bại âm mưu bình định của địch, xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến ngày càng lới mạnh. Địa bàn Liên khu 3 gồm các tỉnh: Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hòa Bình, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Hải Phòng, Thái Bình.
Tháng 5 năm 1952, Trung ương Đảng, Chính phủ quyết định thành lập khu Tả Ngạn trực thuộc Trung ương Đảng. Địa bàn khu Tả Ngạn gồm các tỉnh Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình. Lúc này Liên khu 3 còn lại các tỉnh: Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình. Địa bàn Quân khu 3 gồm Liên khu 3 và khu Tả Ngạn.
Ngày 3 tháng 6 năm 1957, Bác Hồ ký Sắc lệnh số 017/SL thành lập các quân khu Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, Tả Ngạn, Hữu Ngạn, Quân khu 4. Ngày 10 tháng 9 năm 1957, Bộ Quốc phòng ra Nghị định 254/NĐ quy định phạm vi địa giới hành chính do các Quân khu phụ trách. Theo đó, địa bàn Quân khu 3 lúc này gồm Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn. Quân khu Tả Ngạn bao gồm các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình. Đến năm 1957 có thêm Hồng Quảng và Hải Ninh. Đồng chí Thiếu tướng Hoàng Sâm – Tư lệnh; đồng chí Nguyễn Quyết – Chính ủy. Quân khu Hữu Ngạn bao gồm các tỉnh: Hòa Bình, Thanh Hóa (Thanh Hóa mới tách từ Quân khu 4 về). Thiếu tướng Vương Thừa Vũ – Tư lệnh; đồng chí Trần Độ – Chính ủy.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 51/QĐ-BQP điều chỉnh địa giới Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn tổ chức lại với tên gọi Quân khu Đông Bắc và Quân khu 3.
Ngày 27 tháng 3 năm 1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 22/QĐ-BQP tách Quân khu 3 thành Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn: Quân khu Tả Ngạn gồm các tỉnh Hà Bắc, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình. Quân khu Hữu Ngạn gồm các tỉnh Thanh Hóa, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây và Hòa Bình.
Ngày 29 tháng 5 năm 1976, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Sắc lệnh số 45/LCT hợp nhất Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn để thành lập lại Quân khu 3 và điều chỉnh địa giới hành chính tách tỉnh Thanh Hóa thuộc Quân khu 4. Như vậy, từ giai đoạn này địa bàn Quân khu 3 gồm các tỉnh Hải Hưng, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Hà Nam Ninh và Hà Sơn Bình.
Ngày 14-15 tháng 7 năm 1976, Đảng ủy Quân khu 3 họp phiên đầu tiên, ra nghị quyết lãnh đạo Quân khu theo yêu cầu mới. Đảng ủy Quân khu thống nhất đánh giá về vị trí, nhiệm vụ quan trọng của Quân khu 3 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quân khu 3 là địa bàn đông dân cư, giàu của, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, có vị trí quan trọng cả về công nghiệp và nông nghiệp và giao thông … có mục tiêu chiến lược về quân sự.
Từ hai ngày 29 và 30 tháng 6 năm 1978, Quân khu 3 và Quân khu 1 tiến hành bàn giao nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị của lực lượng vũ trang hai tỉnh Hà Bắc và Quảng Ninh từ địa bàn Quân khu 3 cho Quân khu 1.
Ngày 20 tháng 4 năm 1979, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Sắc lệnh số 71/LCT tách tỉnh Quảng Ninh ra khỏi Quân khu 1 để thành lập Đặc khu Quảng Ninh trực thuộc Trung ương. Ngày 7 tháng 7 năm 1979, Đảng ủy Đặc khu Quảng Ninh họp phiên họp đầu tiên công bố các quyết định của Bộ Chính trị về thành lập Đặc khu Quảng Ninh và danh sách Đảng ủy Đặc khu.
Ngày 4 tháng 8 năm 1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 154/NQ hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh vào Quân khu 3. Tại thời điểm này, địa bàn Quân khu 3 gồm 6 tỉnh, thành phố, dân số trên 10 triệu người. Những năm tiếp theo địa giới Quân khu tiếp tục được điều chỉnh: tháng 3 năm 1997 tách tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên; tháng 10 năm 1999 tách Hà Tây về Quân khu Thủ đô.
Như vậy Quân khu 3 ngày nay là tên gọi của một tổ chức hành chính quân sự, đã được trải qua nhiều lần thay đổi về tên gọi, địa giới, mà phần lớn là đồng bằng Bắc Bộ và vùng phụ cận. Ngày 31 tháng 10 năm 1945 thành lập Chiến khu 3, ngày này được xác định là ngày Truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 3.
Quá trình hình thành và phát triển của Quân khu 3 nằm trong quy luật chung của quá trình hình thành lực lượng vũ trang trong cả nước, đó là phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân, dựa vào dân và luôn gắn với đặc điểm tình hình cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn.
Tại thời điểm tháng 5 năm 2010, địa bàn Quân khu 3 gồm 9 tỉnh, thành phố là: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hòa Bình, Hải Dương, Hưng Yên: diện tích 20.082,5 km2; dân số 11.981.600 người; có 93 quận, huyện, thị xã, thành phố (thuộc tỉnh); có 1 816 xã, phường, thị trấn.
Quân khu 3 là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm. Nhiều tên đất, tên làng, tên sông đã gắn liền với những chiến công oanh liệt. Một trong những địa danh gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là sông Bạch Đằng, (còn gọi là Bạch Đằng Giang), hiệu là sông Vân Cừ, sông chảy giữa 2 huyện Yên Hưng (tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và Thủy Nguyên (TP Hải Phòng), sông có chiều dài 32km; là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa). Sông Bạch Đằng là nơi quân và dân ta (thế kỷ X và XIII) đã lập nên những chiến công oanh liệt, hiện nay thuộc địa bàn giáp ranh giữa tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng. Những chiến công đó là:
Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất : Cuối mùa đông năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân ta đập tan cuộc tiến công của quân Nam Hán, giữ vững nền độc lập dân tộc.
Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 2 : Ngày 28 tháng 4 năm 981 Lê Hoàn lãnh đạo nhân dân Đại Cồ Việt đập tan quân sâm lược Tống.
Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 3: Ngày 9 tháng 4 năm 1288, đoàn thuyền địch bắt đầu tiến vào sông Bạch Đằng; Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh trận quyết định đập tan ảo mộng xâm lăng của quân Nguyên, đưa đất nước vào thời đại phát triển.
chúc bạn thi tốt
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK