Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu hỏi tu từ, giọng điệu thơ thân tình da diết
+ Lời trách móc nhẹ nhàng.
+ Lời mời gọi chân thành tha thiết.
+ Lời phân thân tự hỏi chính mình.
Nỗi niềm đau xót, tiếc nuối nghẹn ngào có nhiều hối tiếc.
– Hình ảnh:
Điệp ngữ “khách đường xa” có sức gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu khẩn trương gấp gáp. Nhấn mạnh sự mong đợi tha thiết, lời khẩn khoan van nài những người xưa thật xa xôi, tất cả trở nên vô vọng.
– Hình ảnh: màu áo trắng mờ ảo trong sương khói khiến cho dáng hình con người nhòa đi trước mắt, nhòa đi cả trong tiềm thức. Màu áo trong tâm tưởng vốn trần đầy kỉ niệm nay trở nên nhạt nhòa, xa cách.
– Câu hỏi tu từ cùng với đại từ phiếm chỉ “ai” – lớp từ đa nghĩa.
Thiên nhiên chập chờn, ma mị, mộng ảo, vận động theo logic của tâm trạng. Đó là cái tôi đau thương, nhạt nhòa không ra đường nét, là nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải, mong chờ trong vô vọng, là tâm trạng đau thương, mặc cảm không dám trông mong vào sự đậm đà của tình người trong chốn nhân gian.
+ Nắng hàng cau.
+ Nắng mới lên.
+ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Thiên nhiên hiện lên trong trẻo, ấm áp, tinh khôi, đầy sức sống, tươi đẹp mơn mởn.
+ “Mặt chữ điền”:
Khuôn mặt cô gái Huế.
Khuôn mặt của nhà thơ.
Hình tượng thơ đa nghĩa, độc đáo, ấn tượng, khắc họa nét đẹp kín đáo, đặc trưng của con người xứ Huế, tạo nên cái thần của thôn Vĩ.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp tay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cái tôi cô đơn bị bỏ rơi, bị quên lãng giữa dòng đời tội nghiệp. Yêu cuộc sống đến mãnh liệt nhưng lại gặp phải hoàn cảnh bi thương.
* Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp:
– Điệp từ “gió”, “mây” tạo ra sự cố định, ngăn cách giữa những sự vật thiên nhiên.
– Thông thường, gió thổi mây bay là quy luật một chiều không thể chia cắt nhưng câu thơ lại hàm chứa những từ ngữ không tuân theo quy luật tự nhiên: Gió đi đường của gió, mây bay lối của mây, mây gió chia lìa, li tán đoạn tuyệt với nhau.
– Nhịp thơ 4/3 đã cắt đôi câu thơ, ngắt “gió” và “mây” ra thành hai thái cực.
Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp chính là do mặc cảm về thân phận. Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên và cuộc sống vô cùng, tuy nhiên lại không thể trở về cuộc sống đời thường được nữa (căn bệnh vốn bị người đời xa lánh).
* Nỗi buồn trĩu nặng:
– Nhân hóa: Dòng nước “buồn thiu”
– Động từ gợi tâm trạng kéo theo: “lay”
Từ “lay” tự nó không vui, không buồn nhưng trong cảnh này, sông nước hay chính nỗi buồn của mây nước đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp bên sông và tạo thành một nỗi buồn trĩu nặng trong lòng thi nhân. Nỗi buồn ấy xuất phát từ sự cô đơn, mặc cảm, day dứt không yên lòng, vẫn còn nhiều điều tiếc nuối.
* Nỗi lo âu, phấp phỏng:
– Đại từ phiếm chỉ “ai”, câu hỏi tu từ. Sự mông lung, vô định.
– Hình ảnh “trăng” là tri kỉ và niềm tin cậy. Thiên nhiên tràn ngập ánh trăng tạo nên một cói liêu trai, huyền ảo không có thực. Trăng là thứ duy nhất đi ngược lại xu thế chảy trôi của vạn vật để tìm về với thi sĩ. Trăng là điểm tựa, là niềm an ủi, là toàn bộ hi vọng về sự thấu hiểu, là cầu nối đưa nhà thơ trở về với đời thực.
– Từ “kịp” là hiện thân cho nỗi lo sợ của tác giả. Thi nhân lo sợ vì quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi mà khát vọng giao cảm với thiên nhiên và cuộc đời vẫn còn đong đầy, tha thiết.
Phân tích khổ 3 Đây thôn Vĩ Dạ
Không gian thiên nhiên chập chờn gắn với cảm xúc mơ tưởng, hoài nghi:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Điệp ngữ “khách đường xa” có sức gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu khẩn trương gấp gáp. Nhấn mạnh sự mong đợi tha thiết, lời khẩn khoan van nài những người xưa thật xa xôi, tất cả trở nên vô vọng.
– Hình ảnh: màu áo trắng mờ ảo trong sương khói khiến cho dáng hình con người nhòa đi trước mắt, nhòa đi cả trong tiềm thức. Màu áo trong tâm tưởng vốn trần đầy kỉ niệm nay trở nên nhạt nhòa, xa cách.
– Câu hỏi tu từ cùng với đại từ phiếm chỉ “ai” – lớp từ đa nghĩa.
Thiên nhiên chập chờn, ma mị, mộng ảo, vận động theo logic của tâm trạng. Đó là cái tôi đau thương, nhạt nhòa không ra đường nét, là nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải, mong chờ trong vô vọng, là tâm trạng đau thương, mặc cảm không dám trông mong vào sự đậm đà của tình người trong chốn nhân gian.
Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao thơ mới, là chủ soái trường thơ loạn, là hiện tượng kì dị và ám ảnh nhất trong thơ ca hiện đại. “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ là tình yêu của nhà thơ dành cho Huế, đồng thời thể hiện khát vọng hạnh phúc của thi sĩ Hàn Mặc Tử.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chất chứa biết bao băn khoăn day dứt. Phải chăng bức bưu thiếp xã giao của người con gái mang tên một loài hoa đã trở thành chất xúc tác mở ra cánh cửa tâm hồn của thi sĩ. Để rồi người thi sĩ ấy ngước nhìn ra thế giới ngoài kia:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Câu thơ đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở trách móc, vừa giới thiệu chào mời. Câu hỏi đó là của ai? Đó không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy phải chăng đó chính là tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở câu thơ đầu, khác nào đặt một niềm thắc mắc, dằn vặt xuyên suốt cả thi phẩm. Để rồi ở tứ thơ nào, hình ảnh nào, dù đẹp đến đâu thì người đọc cũng chợt bâng khuâng nhận ra một nỗi nhớ, nỗi sầu ứ nghẹn bên trong.
Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Phải chăng, ngày Hàn Mặc Tử từng đến thăm “quê” trong tiềm thức là một buổi sớm đẹp đến nao lòng. Bởi lẽ trong cùng một câu thơ, chữ “nắng” được lặp lại đến hai lần. Ánh nắng ấy rực rỡ đến độ đong đầy không gian, vương trên vạn vật, chảy tràn sánh vàng tựa mật. Ánh nắng ấy cũng ấm áp đến độ sưởi ấm, thắp lên chút ánh sáng nơi cõi lòng lạnh lẽo của nhà thơ.
Giữa không gian đầy nắng ấy, thẳng tắp vươn lên những thân cau như nét bút muốn khuấy động cả khoảng trời trong trẻo. Trong khu vườn thôn dã, cau là loài cây cao nhất, đón nắng đầu tiên. Bởi vậy, nắng hàng cau là ánh nắng trong trẻo nhất, thanh tân nhất, thuần khiết nhất. Cây cau chia đốt thẳng, giống như thước đo tự nhiên cân đong mực nắng trong vườn. Mặt trời càng lên cao, mực nắng ấy càng dâng lên cho đến lúc phủ qua tán cau, cũng là bao trùm cả khu vườn bằng thứ sắc màu lấp lánh của nó.
Nếu như các nhà thơ khác trong phong trào Thơ Mới thường miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp đượm buồn:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)
Thì với Hàn Mặc Tử, ông lại vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy sức sống. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như mang âm hưởng của điệu Nam Ai, Nam Bình, của điệu hò trên sông Hương. “Vườn ai” không chỉ riêng một khu vườn cụ thể nào mà tựa như theo từng nhịp bước chân thi sĩ, hai bên đường đều là những mảnh vườn như thế. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra mà nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới cực tả được vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bừng lên. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền” =>Bình luận, tiểu kết
Người con gái xứ Huế thường gắn với tà áo dài tím mộng mơ, chiếc nón bài thơ “mang hình bóng quê hương”. Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu nữ ấy lại e ấp “che ngang” gương mặt sau “lá trúc”. Một nét vẽ rất đẹp họa ra vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Người xưa có thanh nữ vịn cành mẫu đơn, giai nhân tựa nhành lan, nay lại có “mặt chữ điền” ẩn hiện sau cành trúc, lá trúc.
Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:
“Gió theo lối gió mấy đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Câu thơ đầu tiên với cách ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió mây chia lìa đôi đường đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì gió thổi mây bay. Phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia cách.
Nỗi buồn từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương giang. Hay dòng nước buồn thiu mang trong mình một tâm trạng được phản vào từ nỗi niềm tâm trạng của thi nhân. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Hương giang không thể tự buồn mà phải chăng thi nhân đã bỏ buồn vào trong đó. Dòng sông lững lờ hay chính là dòng đời mệt mỏi cay đắng đang chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi niềm xa xăm.
Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ được đẩy đi rất xa nhuốm màu ảo mộng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.”
Trăng là hình ảnh quen thuộc trở đi trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ điên không đơn giản là vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Đây được coi là hai câu thơ tuyệt bút của thi nhân kết tinh rực rỡ bút pháp lãng mạn tài hoa. Nếu “thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng thì “sông trăng” lại như một nét vẽ thơ mộng chất chứa linh hồn cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả như lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:
“Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.”
Hay:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.”
Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, nơi “không có niềm trăng và ý nhạc” nên giờ đây, trăng đã trở thành nơi bám víu duy nhất- một tri âm, tri kỉ của nhà thơ. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao đến cháy bỏng. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào ba chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.
Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã gióng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:
“Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến thương anh và rửa vết thương tâm.” => Bình luận, tiểu kết.
“Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, là nhịp đập của con tim”. Một trái tim Hàn Mặc Tử, một nỗi lòng dồn nén như được ông thổ lộ qua khổ thơ cuối. Cảnh Vĩ Dạ thôn vào buổi sáng sớm hay dòng sông Hương với con thuyền chở trăng đã không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại niềm bâng khuâng, tiếc nuối:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa còn là hình bóng của giai nhân xứ Huế. Điệp từ “khách đường xa” khiến nhịp thơ trở nên gấp gáp hơn, khiến lời thơ chất chứa biết bao mặc cảm chia li, xa cách. Chữ "mơ" ở đầu câu gợi về niềm mong ước được trở về thăm Huế và cũng mơ người con gái xứ Huế sẽ chịu vượt đường sá xa xôi để gặp mình. Cũng trong niềm khao khát ấy thi nhân nhìn thấy dường như người con gái ấy trong tà áo trắng. Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra “ không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói mà chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà còn là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả một nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.
Khổ thơ cuối khép lại bài thơ như một lời trách:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
“Ở đây” là không gian nào? Là Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo mà ngày đêm thi sĩ đang phải chống chọi với căn bệnh ác quái? Hình ảnh “sương khói” gợi sự chia cách giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh. Đó phải chăng là sương khói của thời gian, của không gian hay cũng là của mối tình đơn phương vô vọng với mặc cảm chia lìa. Màn sương ấy ngăn cách thi nhân với thế giới bên ngoài, để rồi nhiều luics nhà thơ đã tự hỏi lòng mình:
“Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không có niềm trăng và ý nhạc
Có nàng cung nữ nhớ thương vua”
Và lời hỏi lòng ấy đã bật lên thành câu hỏi khép lại bài thơ. Câu hỏi như chất chứa biết bao khắc khoải, băn khoăn. Đại từ “ai”hướng đến cả hai đối tượng: liệu giai nhân xứ Huế có biết được tình cảm đậm đà mà Hàn Mặc Tử dành cho nàng hay không, liệu tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà như vậy hay không? Vì vậy, thi nhân rơi vào tuyệt vọng và hoài nghi. Tình ai trong câu thơ cuối còn nghĩa là tình đời, tình người. ai biết cuộc đời, tình đời còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu? Và cái tình kia chính là sợi dây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh, xa vời quá.
=>Đánh giá
KB: Theo dấu những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc như lạc trong cuộc hành trình từ thực tại đến mờ ảo, “vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” (Hoài Thanh). Dù thời gian đã trôi qua rất lâu song bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Bài thơ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ thi sĩ họ Hàn, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK