Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đó là người nông dân có tình yêu làng và yêu nước sâu sắc, hai tình yêu này hòa quyện với nhau tạo nên dấu ấn khó phai về nhân vật.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, nó ngấm vào máu thịt trong ông. Tình yêu ấy có thể chia làm ba chặng chính: tình yêu làng khi ông Hai ở làng tản cư; tình yêu làng, yêu nước khi ông Hai nghe tin làng mình theo Việt gian; tình yêu làng, yêu nước khi ông nghe tin cải chính.
Trước hết, tình yêu làng của ông Hai khi ở làng tản cư. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng da diết, tâm trí ông luôn hướng về những ngày hoạt động kháng chiến, những ngày đào ụ, xẻ hào để giữ làng cùng anh em, đồng đội. Giữa những thay đổi của hoàn cảnh hiện tại, phải tản cư đi nơi khác, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng mỗi khi nhớ về làng quê yêu dấu lại tiếp thêm cho ông động lực, làm dịu đi trong ông những tủi cực của một kẻ tha hương. Có thể thấy ở ông Hai, tình yêu làng gắn bó mật thiết, bền chặt với tình cảm kháng chiến. Nỗi nhớ ngập tràn và lòng khao khát, mong muốn trở lại làng để được tham gia kháng chiến dồn nén mạnh mẽ đến mức ông bật thành lời: Chao ôi ! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá !. Ông Hai hàng ngày đều đến phòng thông tin, một mặt để dõi theo từng bước đi của cuộc kháng chiến, nhưng sâu xa hơn, ông đến vì mong mỏi khoảnh khắc nào đó ông có thể nghe được tin tức về làng chợ Dầu. Khi nghe những thông tin quân ta thắng lòng ông phấn chấn, hỉ hả ruột gan ông lão như múa lên. Vui quá. Niềm vui đi liền với niềm tin vào một ngày cách mạng thắng lợi, ông sẽ được trở về ngôi làng yên bình của mình.
Tình yêu làng còn được thể hiện một cách sâu sắc khi ông nghe tin làng theo Tây. Trong lúc ông Hai đang sống trong cảm xúc vui sướng thì tim ông như vỡ vụn khi nghe tin cả làng chợ Dầu Việt gian theo Tây. Chính trong hoàn cảnh thử thách éo le này tình yêu làng mà cao hơn là tình yêu nước trong ông được bộc lộ một cách sâu sắc. Ông vô cùng bàng hoàng, bất ngờ, nỗi xúc động tột cùng dâng trào, gương mặt cố tỏ ra bình tĩnh nhưng không thể nào nén lại nỗi đau đang lan dần trên khuôn mặt ông: cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở được …. Đó quả thực là một tin trời giáng đối với ông Hai, ông không thể tin và không muốn tin đó là sự thật. Nhưng lời của người đàn bà quả quyết quá, bằng cớ rõ ràng quá khiến ông đành phải tin cái sự thật khủng khiếp ấy. Những lời nói của những người tản cứ như con dao cứ vào trái tim ông. Ông cúi gằm mặt mà đi, đau đớn, tủi nhục đến tốt cùng. Danh dự, lòng tự trong mà lớn hơn là điều gì đó vô cùng thiêng liêng trong lòng ông đã sụp đổ.
Về đến nhà, ông nằm vật ra đường, nhìn những đứa con ông lại càng thương chúng hơn: chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư, uất hận ông rít lên trong đau đớn chúng bay miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này, ông căm ghét, khinh bỉ đến tột cùng. Trò chuyện với vợ trong gian nhà nhỏ, thái độ của ông vừa bực bội, vừa đau đớn, đâm ra ông gắt gỏng vô cớ với vợ. Những ngày này ông chỉ ở nhà, không dám đi đâu. Trong hoàn cảnh đó ông và cả gia đình còn bị mụ chủ nhà khó tính đuổi khéo đi. Điều đó làm ông Hai trở nên bế tắc tuyệt vọng hơn bao giờ hết. Chính giây phút tuyệt vọng đấy ông đã nghĩ hay là về làng. Nhưng lập tức trong ông diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt: về làng tức là rời bỏ kháng chiến, đầu hàng Tây,… Đến đây tình cảm cách mạng và lòng yêu nước đã thực sự hòa quyện trong ông. Tình yêu làng của ông giờ đây gắn liền với tình yêu nước, với kháng chiến và được thể hiện rõ nét trong cuộc đối thoại với đứa con út. Lời khẳng định dứt khoát, kiên định: Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm, là tiếng lòng trung thành với Bác Hồ, với Đảng và với đất nước. Hơn hết, dù đau đớn nhưng ông vẫn tin rằng anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông. Sự trung thành của ông với lãnh tụ, với kháng chiến cũng là lòng trung thành của triệu người dân Việt Nam với Đảng với cách mạng.
Tình yêu làng của ông Hai một lần nữa được thể hiện rõ nét trong đoạn cuối tác phẩm khi ông Hai nghe tin cải chính, làng chợ Dầu không theo Tây. Mới đến ngõ, chưa vào nhà ông đã bô bô, rồi lật đật chạy sang nhà bác Thứ, đi hết nơi này đến nơi khác để khoe, vừa đi ông vừa múa lên. Niềm vui ấy đến mức dù nhà mình bị đốt cháy ông cũng chẳng hề lưu tâm. Chi tiết này khiến người đọc càng cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng, yêu tổ quốc, yếu kháng chiến của ông Hai.
Nhân vật ông Hai được khắc họa chủ yếu qua ngôn ngữ và diễn biến tâm trạng. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, chân thật, giàu cảm xúc. Diễn biến tâm trạng được bộc lộ trực tiếp qua những cảm xúc, suy nghĩ và thông qua cả cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ. Đồng thời quá trình vận động tâm lí cũng hết sức hợp lí từ nhớ nhung, mong mỏi đến bất ngờ, bàng hoàng, chìm trong tủi nhục, đau khổ và cuối cùng là niềm vui mừng vỡ òa, hạnh phúc tột cùng.
Bằng lối văn chân thực, giàu cảm xúc Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng nhân vật ông Hai. Nhân vật mang trong mình tình yêu làng, yêu nước nồng nàn, tha thiết. Lòng yêu nước bao trùm và chi phối tình yêu làng – đây là bước chuyển biến mới trong tư tưởng nhận thức của những người nông dân sau cách mạng.
Bài văn mẫu 4
Tình yêu quê hương, đất nước là một chủ đề lớn của văn học dân tộc. Đọc mỗi câu thơ, bài văn ta không khỏi bồi hồi, xúc động trước tình cảm mà tác giả biểu lộ với nơi mình được sinh ra: “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/ Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi/ Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi/ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá” (Tế Hanh). Nằm trong chuỗi đề tài lớn ấy, ta không thể không nhớ đến một ông Hai với lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu làng tha thiết trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân.
Cuộc kháng chiến diễn ra ngày một ác liệt, ông Hai sinh sống ở làng chợ Dầu phải tản cư đi nơi khác. Trong những ngày rời xa ngôi làng yêu dấu lòng ông không ngừng thổn thức nhớ về quê hương. Ông chăm chú lắng nghe từng tin về kháng chiến, về làng. Và đỉnh điểm của tình yêu đó chính là khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Ông Hai bị đặt trong tình thế phải lựa chọn giữa làng và nước. Cuối cùng ông Hai đã chọn tình yêu nước, bởi làng đã theo giặc thì phải thù. Như vậy, tiếp tục khai thác về lòng yêu nước, nhưng bằng ngòi bút tinh tế Kim Lân đã phát hiện ra nét mới trong tình yêu nước của người nông dân.
Trong những ngày phải sinh sống ở làng tản cư, ông Hai không ngừng nhớ thương về ngôi làng. Làm sao không nhớ cho được nơi chôn rau cắt rốn của mình, đúng như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng viết:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Ông Hai cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Mặc dù cuộc sống lao động vất vả, nhưng trong những phút rảnh rỗi ông vẫn mường tượng nhớ về những công việc mình đã làm với các đồng chí, đồng đội: đào, cuốc, đắp ụ, xẻ hào,… Mỗi lần hồi tưởng làm ông lại có động lực hơn, lòng yêu nước lại mạnh mẽ hơn. Ngày nào ông cũng nghe ngóng tin tức, bụng ông như múa lên mỗi lần nghe được một tin thắng trận của ta. Những hành động đôi khi có phần trẻ con, nhưng đó chính là biểu hiện chân thực nhất của lòng yêu nước nồng nàn trong ông và cũng như của tất cả những người Việt Nam khác.
Nhưng mọi chuyện đối với ông lại không hề suôn sẻ, những ngày tháng ở làng tản cư, khi lòng nhớ làng lúc nào cũng sục sôi thì bỗng ông nhận được tin dữ ấy là làng mình theo giặc. Cái tin đó chẳng khác gì gáo nước lạnh đổ thẳng vào lòng nhiệt thành và trái tim yêu làng cháy bỏng của ông. Bàng hoàng và sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Làm sao ông có thể không bàng hoàng cho được, cái tin đó quá đỗi bất ngờ và ngoài sức tưởng tượng của ông. Như để xác minh lại thông tin, ông Hai còn cố gắng hỏi lại người đàn bà: “Liệu có thật không hở bác”. Giọng nói run run, nghẹn ứ và sau khi nghe lời xác nhận, ông lặng lẽ vươn vai, rồi hắng giọng về. Câu nói đưa đẩy ấy chất chứa bao tâm tư, bao nỗi lòng trong ông. Trên đường về ông chẳng dám nhìn ai, cứ thế cúi gằm mặt mà đi.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy cha có vẻ khác cũng vội lảng đi. Như để kiểm chứng lại lần cuối, ông Hai kiểm điểm trong đầu từng người trong làng, ông hoang mang lo lắng. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước nồng nàn và sự trung thành với cách mạng nơi ông. Không chỉ vậy, cái tin làng theo giặc cứ đeo bám, ám ảnh ông khiến ông không dám tiếp xúc với mọi người, nỗi nhục nhã, xấu hổ trào dâng trong lòng. Ông Hai đã đồng nhất danh dự của làng với danh dự của chính mình, khiến cho cái tin làng theo giặc cũng như chính ông đang theo giặc. Bởi vậy nỗi đau đớn, tủi hổ lại càng chồng chất lên gấp bội.
Tin làng chợ Dầu theo giặc lan nhanh khắp mọi nơi, gia đình ông phải đối mặt với một nguy cơ mới chính là bị mụ chủ nhà đuổi đi. Sự việc ấy, không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ông mà còn ảnh hưởng đến gia đình ông cũng như rất nhiều người sống ở làng chợ Dầu khác. Đêm đó trong ông Hai đã diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng quyết liệt, đi hay ở. Và cuối cùng ông quyết định không về làng, bởi về làng là theo giặc, là phản bội lại cách mạng và Bác Hồ, “làng yêu thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Bản chất của ông Hai là người yêu làng tha thiết, nhưng cao hơn cả ông là người yêu nước, tình yêu nước là tình cảm bao trùm tình yêu làng.
Với ngòi bút phân tích tâm lí vô cùng xuất sắc, cùng với đó là nghệ thuật kể chuyện tài tình, Kim Lân đã liên tục tạo ra những bước ngoặt tâm lí, để câu chuyện hấp dẫn, sinh động, hơn hết là để thấy được vẻ đẹp của nhân vật chính – ông Hai. Những ngày ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đớn đau, tủi nhục bao nhiêu thì ngày nghe tin cải chính lòng ông vui sướng, trẻ lại bấy nhiêu. Lúc bấy giờ ông Hai chẳng khác gì một đứa trẻ con, ông đi khoe ở khắp nơi, làng bị Tây đốt nhẵn với giọng hồ hởi, sung sướng. Tài sản, nhà cửa đối với ông lúc này đâu còn nghĩa lí, cao hơn đó chính là danh dự của ông, danh dự của làng đã được khôi phục. Bản chất hồn nhiên, chất phác của người nông dân lúc này được thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Kim Lân không sáng tác nhiều, nhưng chỉ với tác phẩm này cùng nhân vật ông Hai đã cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy. Ông Hai hiện lên là người yêu làng, yêu nước tha thiết, sâu nặng, tình yêu đó gắn liền với danh dự và mạng sống của ông. Chỉ với lớp ngôn từ chân thành, giản dị, nhưng cũng đủ để Kim Lân cho người đọc thấy một vẻ đẹp rất khác của lòng yêu nước ở những người nông dân chất phác, lương thiện.
Khắc họa hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhà văn Kim Lân đã thể hiện thật rõ nét hình tượng đó qua nhân vật ông Hai qua tác phẩm Làng. Truyện ngắn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc về một nông dân chất phát, yêu mến và gắn bó với quê hương bằng một tình yêu tha thiết
Tác phẩm ra đời từ năm 1948, bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông Hai trong tác phẩm là một người nông dân người làng chợ Dầu, cùng gia đình đi tản cư để phục vụ kháng chiến như thế. Mặc dù phải rời xa quê hương nhưng ông luôn trăn trở, nhớ nhung về cái làng của mình với bao sự lưu luyến
Tình yêu của ông đối với cái làng Chợ Dầu được thể hiện bằng việc ông hay say mê kể về cái Làng của mình. Trước cuộc kháng chiến ông khoe về cái dinh phần của viên quản đốc làng ông: "Chết! Chết!, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ của cụ thượng làng tôi". Mặc dù, ông chẳng có họ hàng thân thích gì với nhà viên quản đốc nhưng ông vẫn gọi là "cụ" một cách rất hả hê. Nhưng khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, làng ông được giải phóng, người ta không thấy ông nhắc tới cái lăng đó nữa. Bởi trong ông đã sự thay đổi về nhận thức, ông nhận thức được "cái lăng" đó làm cho cả làng ông khổ, chẳng thế mà "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó...", cũng vì nó mà chân ông bị tật. Từ niềm tự hào, niềm hãnh diện, bây giờ ông thù nó, bởi nó là kẻ thù của cả làng, nó làm cho biết bao người phải bỏ mạng...... Bây giờ, ông khoe làng ông được giải phóng, ông được tham gia vào kháng chiến "từ thơi còn trong bóng tối", những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh...........
Ở nơi tản cư, điều khiến ông sung sướng nhất là được khoe về cái làng của mình, dường như đối với ông trong cuộc sống chẳng còn điều gì thú vị nữa, ông chằng bận tâm tới bất kỳ điều gì khác ngoài những tin tức về cái làng của mình "ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày được làm việc cùng với anh em, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra..". Trong lòng ông lão lại náo nức cả lên. Lúc này, niềm vui nhất của ông là được nghe những tin tức về cái Làng của mình. Hình ảnh ông Hai hiện lên thật đáng yêu, ông ghét những người biết chữ, ra vẻ ta đây, đọc báo mà chỉ đọc có một mình, không đọc to lên cho tất cả mọi người cùng nghe.
Tác giả tạo ra tình huống tản cư, hình ảnh ông Hai hiện lên mang đầy đủ với những phẩm chất quý báu của những người nông dân Việt Nam hiền lành, chịu thương chịu khó. Đối với ông, đi tản cứ âu cũng là kháng chiến, ở nơi tản cư ông làm tất cả mọi việc, từ cuộc đất trồng rau, chăm sóc bọn trẻ con....... Hình ảnh ông vừa là hình ảnh đậm chất nông dân với "Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ". Nỗi nhớ về quê hương của ông cứ chống chất, ông nhớ, ông đem làng ra kể cho cái nhớ ấy vơi bớt... ông nghe ngóng nó qua báo đài, qua những người tản cư
Ông Hai đau đớn nghe tin làng mình theo giặc. Cái tin "làng Chợ Dầu theo giặc" mà ông nghe được của một người đàn bà tản cư làm ông lão cảm thấy choáng vàng, như tiếng sét giữa trời quang. "Cổ ông lão nghẹn đắng lại, giọng ông lạc hẳn đi, da mặt tê rân rân. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ...". Ông cúi gằm mặt xuống mà đi, Ông nghĩ đến sự khinh ghét của bà chủ nà, của bà con lối xóm "rồi đây ai người ta chứa, ai người ta buôn bán mấy". Tâm trạng ông lão như vừa mất đi thứ gì thiêng liêng lắm. Ông luôn tự hào về quê hương mình, luôn khoe làng mình như một ví dụ điển hình cho đấu tranh giải phóng, chống giặc. Vậy mà giờ đây, ông lại phải nghe tin làng mình theo giặc, không giấu nổi sự nhục nhã ông vờ đứng rồi lảng ra chỗ khác, cúi gằm mặt xuống mà đi. Về tới nhà, ông nằm vật ra giường, dường sự bao niềm tin, bao tự hào của ông đều sụp đổ, nước mắt ông giàn ra. Nhà văn Kim Lân diễn ta tâm trạng của ông Hai thật xúc động. "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu?. ...". Đau đơn, tủi hổ, nếu như ông không yêu làng đến thế, không tự hào như thế, thì giờ đây khi nghe tin dữ ông đã không cảm thấy ê chề như vậy. Khổ thân ông lão vốn xởi lởi, vui tính, ban đầu ông nghi ngại, ông tự hỏi lòng mình, trong đầu ông điểm lại những nhân vật trong làng "Mà thằng chánh Bệu đích thực là người làng rồi. Dường như, ông không thể chấp nhận nổi cái tin đó, ông đâu tranh nội tâm một cách giữ dội nhưng rồi cuối cùng phải chấp nhận nó với những minh chứng rõ ràng. Sự đáu đớn đến tột cùng, có lẽ nếu như phải nghe tin làng bị cháy rụi hạy bị giặc đốt phá có lẽ ông lão không cảm thấy xót xa như bây giờ. Có lẽ, đối với ông đây là điều tủi hổ nhất "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian". Những lời đó như được xuất phát từ trái tim ông, cả đời ông có lẽ chưa bao giờ phải chịu cảnh tủi nhục như thế, nó được cất lên từ một niềm tin hoàn toàn bị sụt đổ, từ một tình yêu tha thiết. Ông không những chỉ đau cho mình, cho gia đình mình, mà còn đau cho tất cả những người cùng quê hương cũng đang lưu lạc trên khắp mọi miền đất nước "lại còn biết bao người làng, đang tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã biết cái cơ sự ngày chưa...'.
Đến khi, cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, tất cả những nỗi đau, tủi nhục được thay thế bằng niềm sung sướng, hân hoan "Tất cả đều là sai sự mục đích cả... tất cả đều là sai sự mục đích cả". Ông Hai báo cái tin làng bị giặc phá với niềm sung sướng tốt độ, mặc dù nhà ông bị gặc đốt nhưng dường như ông chẳng có chút đau buồn nào "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn....". Ông hạnh phcus bởi, cái sự mất mát của ông, của quê hương ông cũng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho lòng trung thành dành cho cách mạng
Nhà văn Kim Lân đã khắc họa thật rõ nét nhân vật ông Hai, hình ảnh ông cũng là đại diện cho tầng lớp nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK