Trang chủ Ngữ văn Lớp 7 cảm nhận về quan họ Bắc Ninh( ngắn thôi nhé)...

cảm nhận về quan họ Bắc Ninh( ngắn thôi nhé) câu hỏi 3759331 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

cảm nhận về quan họ Bắc Ninh( ngắn thôi nhé)

Lời giải 1 :

Em đi khắp bốn phương trời

Không đâu thanh lịch bằng người ở đây

Chỉ hai câu thơ thôi đã gói gọn những lời hay ý đẹp về người quê Quan họ rồi. Không biết câu ca ấy là sự nhận xét tinh tế của người tỉnh khác về con người xứ Bắc Ninh - Kinh Bắc hay của chính người dân xứ sở Quan họ này tự hào về quê hương yêu dấu của mình. 

"Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ

Ngoại năm thành chỉ có Bắc Ninh

Yêu nhau trở lại xuân tình

Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường"

(Dười giờ mấy kẻ biết ra)

Trong các loại hình dân ca tiêu biểu, có thể nói dân ca Quan họ Bắc Ninh được đánh giá là loại hình dân ca đặc sắc và được nhiều người yêu thích nhất. Điều đó được khẳng định không chỉ bởi những làn điệu ngọt ngào, đằm thắm; những ca từ mộc mạc nhưng rất tinh túy mà còn bởi nghề chơi Quan họ độc đáo, đầy sức cuốn hút. Xưa kia, người Quan họ không gọi là hát Quan họ mà gọi là chơi Quan họ, một thú chơi dân dã, tao nhã, nhưng có sức quyến rũ mãnh liệt người chơi và người được thưởng thức. Vào canh hát, người Quan họ như tỉnh như say, canh hát càng về khuya càng trầm, càng bổng, càng mặn nồng thiết tha. 

Từ khi còn trong nôi, lời ru của bà, của mẹ đẫm chất Quan họ đã thấm sâu vào hồn tôi để rồi mỗi ngày lớn lên, cái chất dân ca đằm say ấy nó lại càng ngấm vào từng mạch máu, hơi thở của tôi. Càng đi sâu vào những làn điệu, những câu ca Quan họ cổ, tôi càng mường tượng ra một không gian Quan họ xưa kia sao mà bao la, ngút ngát nhưng cũng gần gũi, bình dị làm sao. Ẩn chứa trong sự mộc mạc, dung dị của dân ca Quan họ là những nét thanh cao, kiêu sa đến ngưỡng mộ. Có những câu ca rất giản dị, gần gũi mà ăm ắp tình người: 

"Dưới giời mấy kẻ biết chơi

Chơi cho lở đất, long giời mới hay

Chơi cho sông cạn lại đầy

Cho thuyền về bến, cho mây gặp rồng

Chơi cho loan phượng trùng phùng

Chơi cho nên nghĩa nên tình đôi ta".

(Dưới giời mấy kẻ biết chơi)

Có những câu ca lại sâu sắc, ẩn chứa những tâm sự đầy vơi nỗi niềm mà người đời xem chừng khó có thể diễn đạt: 

"Sầu riêng em vẫn âm thầm

Vui này cho bõ đau ngầm ngày xưa 

Ai làm gan héo dạ sầu

Em ngồi, em nghĩ càng cay đắng lòng.

Người về tựa chốn loan phòng

Em về thắp ngọn đèn chong canh dài".

(Trống Rồng)

 Những nỗi niềm gửi trao, những hờn ghen, trách cứ trong câu ca được giãi bày hết sức tế nhị mà sâu sa đến thế: 

"Anh tư đã có chốn để em chờ đợi luống công

Chữ chung tình đã hẹn từ xưa".

(Lòng vẫn đợi chờ)

Hoặc: 

"Yêu hoa phải giữ lấy màu cho hoa

Xin đừng chê xấu chê xa,

Chê em vụng nói cửa nhà neo đơn.

Trong làng cũng có nơi hơn,

Trái duyên chẳng thuận phải sang quê người".

(Người ngoan)

Bao nhiêu làn điệu, bao nhiều lời ca cũng chỉ gói gọn trong chủ đề tình yêu, nhưng đề tài này nói sao cho vừa, nói sao cho hết; một đề tài vô tận để người quan họ khai thác, thế mới thấy sự tài tình xưa kia của người quê Quan họ khi sáng tạo loại hình dân ca quý báu này. 

Lối chơi tao nhã, phóng khoáng mà lại khiêm nhường của người Quan họ càng làm nổi bật cốt cách của mình. Người Quan họ có nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng mà không nơi nào có được. Giữa bộn bề công việc thường nhật của mình, họ đã tạo ra một không gian riêng biệt, một thú chơi lôi cuốn mọi tầng lớp trong xã hội xa xưa ở xứ sở này đều muốn vào cuộc chơi một cách tự nguyện và hết sức say sưa. Sau những giờ lao động vất vả, họ lại tụ họp bên nhau để ca hát, đặt lời, bẻ giọng những câu ca mới. Họ ca với nhau những canh Quan họ thâu đêm, rạng ngày; cho tàn canh mãn võ để vui dân, vui xóm, vui bầu, vui bạn. Và rồi lúc chia tay họ cứ mãi dùng dằng, dan díu mà chẳng nỡ dứt dây sao cho đành. 

Ngoài những lúc thư nhàn cùng nhau sinh hoạt văn hóa Quan họ, họ lại gần gũi, động viên, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống khó khăn hàng ngày của mình. Điều đặc biệt quan trọng là họ thực hiện hết sức nghiêm cẩn những gì đã đề ra trong lối chơi Quan họ khi đã  thành quy tắc. Người Quan họ luôn cẩn trọng trong trang phục, giao tiếp và mọi hành vi ứng xử của mình. Tất cả những gì mà quê hương Quan họ đã khởi nguồn và gìn giữ cho đến ngày nay thật xứng với thành quả mà họ đã gặt hái được. Chính vì vậy mà vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh chính thức được tổ chức Unesco công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Sau thời điểm này, dân ca Quan họ Bắc Ninh có thể nói đã đạt đến đỉnh cao về nhu cầu của cộng đồng người nghe cũng như những người muốn tự mình ca lên được những làn điệu dân ca quan họ. Khắp trong và ngoài tỉnh rộ lên phong trào ca hát Quan họ. Nhiều nơi thành lập những câu lạc bộ Quan họ và có nhu cầu học hỏi về loại hình dân ca này. Thật tự hào về nét văn hóa đặc sắc của quê hương và một niềm tin trong tôi cũng như người dân nơi đây chắc chắn sẽ không bao giờ phai: Dân ca Quan họ Bắc Ninh sẽ mãi mãi trường tồn và lan tỏa.

Xin hay nhất ạ

Thảo luận

Lời giải 2 :

  Một trong những niềm tự hào của người Kinh Bắc là Hội Lim. Trong Hội Lim, thứ “đặc sản” tuyệt vời nhất là những làn điệu quan họ. Những làn điệu dân ca quan họ trữ tình, mượt mà, da diết, ngọt ngào ấy được trình tấu bởi những liền anh, liền chị lịch lãm mà không kém phần duyên dáng. Cứ thế, dân ca quan họ đi vào lòng người và trở thành phần hồn, thành món ăn tinh thần của con người, thành nét văn hoá rất riêng của vùng đất kinh kì xưa.

   Dân ca quan họ Bắc Ninh được hình thành khá lâu đời, do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay của Việt Nam sáng tạo ra. Các làng quan họ nằm hai bên bờ sông cầu, cách thủ đô Hà Nội về phía bắc khoảng 30km. Dân ca quan họ là hát đối đáp nam, nữ. Họ hát quan họ vào mùa xuân, mùa thu khi có lỗ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo. Có bốn kỹ thuật hát đặc trưng: Vang, rền, nền, nảy. Hát quan họ có ba hình thức chính: Hát canh, hát thi lẩy giải, hát hội. Hát quan họ gắn liền Với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ, tục “ngủ bọn”. Mặc dù các phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dán các làng quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.

   Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ. Liền anh mặc áo dài năm thân, cổ đứng, có lá sen, viền tã, gâu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đên hai áo đài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc đối với người khá giả hon thì áo ngoài may bane đoạn mâu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh... gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu maỵ quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mờ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt lóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.

   Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy". Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truôi nhuộm. Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh gián, áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm... Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà. Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Thắt lưng cung buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái. Liên chị mặc váy váy sôi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi trai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm phía gót chân. Dép cong làm băng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công, mũi dép uốn cong như một lá chắn nhỏ, che dấu đầu các ngón chân. Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liên chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.

   Hiện nay vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng về thời điểm ra đời của Dân ca quan họ trong lịch sử. Có thể nghĩ rằng Dân ca quan họ phát triển đến đỉnh cao vào giữa thế kỉ XVIII, Chủ nhân của quan họ là những người nông dân Việt (Kinh), chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Mồi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng lề hội làng, nơi mà người dân thờ thành hoàng, nữ thần, một đôi trường hợp là tín ngưỡng phồn thực. Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bấc Ninh) mở vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất.

   Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sỡ Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Các làn điệu quan họ cổ bao gồm: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát trăng thanh, Tứ quý...

   Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ". Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ờ các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. "Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát). Nhiều bài quan họ truyền thống vần được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa thích đến tận ngày nay như La ràng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo... Sinh hoạt văn hoá Quan họ của liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Cuộc hát Quan họ được xem là Canh hát chính thống thường phải tuân thủ đủ trình tự các chặng: lề lối, giọng vặt và giã bạn. Trong ba chặng hát: Lề lối, Giọng vặt, Giã bạn - mỗi giai đoạn đều có những biểu hiện khác biệt ở phân nội dung .cũng như hình thức cấu trúc bài bản. Lề lối là các bài Quan họ cổ, thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản có nhiều tiếng đệm, lời phụ. Người hát những bài Quan họ Lề lối phải biết kỹ thuật hát vang, rền, nền, nảy, ngắt, rớt mới có thể thực hiện tốt và “đúng chất” Quan họ.

   Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới. Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, cải biên các bài bản truyền thống. Hát quan họ với lời mới được nhiều người vêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài "Sông cầu nước chảy lơ thơ" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống "Nhất quế nhị lan".

   Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn so với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết. Từ những năm 70 của thế kỉ trước, Sở Văn hóa Hà Bấc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân (Đen nay hầu hết đã ra đi) Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản Ầm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực kỳ cẩn thận để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau. Quan họ đã được ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng công bố là Di sản phi vật thế đại diện của Nhân loại.

   Dù trải qua nhiều thăng trầm, ngày nay quan họ vẫn tồn tại và được nâng niu, giữ gìn. Trong tương lai, chắc hẳn quan họ tiếp tục đồng hành cùng con người, tạo nên nét riêng, nét đẹp văn hoá của xứ Kinh Bắc và cả dân tộc Việt Nam

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 7

Lớp 7 - Năm thứ hai ở cấp trung học cơ sở, một cuồng quay mới lại đến vẫn bước tiếp trên đường đời học sinh. Học tập vẫn là nhiệm vụ chính!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK