Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đã đứng dậy chống Pháp và lựa chọn cho mình một cái chết thật oanh liệt: “thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Có thể nói, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” theo như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua, cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã đi vào thất bại. Họ phải ngã xuống giữa những chiến trường trong cảnh da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ. Họ là những người thất thế, quả thực là như vậy. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã khiến cho họ sống lại trong những hình tượng mang đầy khí phách và hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao đã hiển hiện trong bài văn tế với âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần Giuộc chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung… Ấy thế mà khi giặt đến, họ liền trở thành những người dũng sĩ. Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác tham gia đánh giặc: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Trong khi triều đình nhu nhược, chỉ bàn những kẻ nhượng bộ, đầu hàng quân giặc thì họ đã tự mình đứng dậy. Tinh thần: mến nghĩa làm quân chiêu mộ của những người dân cày thật là đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ rất nhiều khó khăn với những gian nan: lực lượng địch, lực lượng ta quá chênh lệch, thiếu kĩ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đoàn nghĩa quân nông dân lại rất nghèo khổ, lam lũ. Họ gần như đi thẳng đến chiến trường từ những túp lều tranh rách nát và những luống cày quen thuộc, không mũ nón, không giáp trụ và cũng chẳng gươm giáo cung tên…
Tất cả trang bị của họ đều rất thô sơ, là những đồ dùng thường ngày, quen thuộc nhưng lại khiến cho kẻ thù thích điên bát đảo. Sức mạnh của họ không chỉ là sức mạnh thể lực mà đó còn là sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy danh vàng đỏ với đạo, lấy lòng dũng cảm để chống lại những chiếc tàu sắt, tàu đồng.
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đèn xì, muốn ra cắn cổ”
Lòng căm thù giặc ấy đã đem đến cho những người nghĩa sĩ sự dũng cảm và sức mạnh đến phi thường. Họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như ở chỗ không người.
Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn đầy trang trọng, đẹp đẽ. Nhưng ông lại không thể che dấu sự thật đau lòng… Bài văn tế còn là đời ai oán, là tiếng khóc của ông trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho những người đọc chúng ta cảm thấy đau lòng. Đất trời, cỏ cây cũng phải rung động:
“Đoái trông Cần Giuộc; cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”
Đó còn là tiếng khóc của chính tác giả:
“Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm, đồn Lang Sa một khách đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.”
Cái bi bao trùm lên cả đoạn văn, nhưng đại bi ở đây không phải là bi thảm mà là bi tráng. Đây là nỗi đau đớn vì nước nhà, vì nhân dân. Đau mà không khiến cho người ta nản lòng thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy, hiên ngang chống lại kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa tuy đã thất bại, nhiều người đã phải ngã xuống nhưng chết vinh còn hơn sống nhục. Họ đã để lại danh thơm muôn đời. Ra đi như những tấm gương sáng, trái lại vẫn còn sống mãi và có sức động viên lớn đối với cuộc chiến sau này…
Thời gian cứ thế trôi qua nhưng những gì là giá trị, là vẻ đẹp cao quý thì luôn còn mãi. Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, oanh liệt có những mất mát cũng quá nhiều. Trong cuộc nổi dậy chống Pháp, những người nghĩa sĩ Cần Giuộc tuy đã hi sinh nhưng vẻ đẹp hào hùng, bi tráng của họ mãi trường tồn cùng thời gian. Bởi vậy, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là áng văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong nước, nổi lên những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Đến năm 1861, những người nghĩa sĩ nông dân quả cảm đã tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc, khiến một số quan quân của giặc và tên tri huyện tay sai bị tiêu diệt. Song thật không may, đã có khoảng hơn 20 nghĩa sĩ đã hi sinh. Xúc động trước tình cảnh đó, Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hi sinh trong trận này.
Mở đầu tác phẩm, trong phần Lung khởi, tác giả tái hiện tình cảnh đau thương của dân tộc với tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Tác giả đã ca ngợi tấm lòng của nhân dân tỏa sáng dù vũ khí quân đội vắng mặt. Đồng thời, nhà thơ cũng khái quát về hai quãng đời của người nông dân nghĩa sĩ: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tuy quãng thời gian làm nông dân rất dài, sống một cuộc sống bình yên, song họ sẵn sàng làm nghĩa sĩ chống giặc trong thời gian ngắn, để rồi danh thơm còn mãi với muôn đời. Họ là những người trượng nghĩa, mang tinh thần xả thân sẵn sàng đứng lên chống lại quân giặc.
Trong phần Thích thực từ câu 3 đến câu 15, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân trong cuộc sống đời thường và trong chiến tranh. Họ vốn xuất thân là những người nông dân quanh năm ngày tháng chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, nhưng khi giặc xâm lược, họ giờ đây không còn “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Vẻ đẹp bình dị của những người nông dân chân lấm tay bùn giờ đây trở nên huy hoàng hơn bao giờ hết bởi tinh thần căm thù giặc sâu sắc ngùn ngụt chất chồng. Họ bày tỏ cảm xúc của mình một cách chân thật “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Họ nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc – đó là tham gia chiến đấu. Họ vào trận với “manh áo vải làm đồng” và những dụng cụ lao động thô sơ như ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Vậy mà, chỉ với tinh thần dũng cảm, họ có thể tham gia trận công đồn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Họ chiến đấu với hành động dứt khoát, mạnh mẽ: “đốt”, “chém”, “đạp rào”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,… Bởi vậy, họ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ: “mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Phần Ai vãn từ câu 16 đến câu 25 bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và của nhân dân đối với người nông dân nghĩa sĩ. Đó là nỗi đau đớn khôn nguôi của thân nhân nghĩa sĩ: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Đó còn là nỗi căm giận tội ác kẻ thù hòa chung tiếng khóc nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước: “Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”. Xót xa là thế nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn khẳng định sự hi sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc là anh dũng, là cao cả: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
5 câu thơ kết đã ca ngợi công lao bất diệt của những người nghĩa sĩ. Họ là những người “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó”. Thái độ tôn kính mà đau xót của tác giả không chỉ thể hiện qua từ ngữ trang trọng mà còn ở giọng điệu trầm buồn. Sự mặc niệm, nấc nghẹn đau đớn của Nguyễn Đình Chiểu ở cuối bài: “Hỡi ôi thương thay/ Có linh xin hưởng” cũng thể hiện tấm lòng ngợi ca công đức theo hướng vĩnh viễn, muôn đời.
Qua việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, bút pháp hiện thực cùng giọng điệu trữ tình thống thiết, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tượng đài ca ngợi người nghĩa sĩ Cần Giuộc, đồng thời cũng là tiếng khóc lớn của tác giả dành cho những người hi sinh và cho cả tình cảnh đau thương của đất nước. Bởi vậy, tác phẩm luôn song hành cùng thời gian bởi giá trị vĩnh hằng mà nó đóng góp.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK