Chùa Thầy là một cổ tự rất nổi tiếng trên miền Bắc Việt Nam thuộc Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội.
Chùa Thầy được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) gắn liền với huyền tích và công đức của Thiền sư Từ Đạo Hành.
Thời gian đầu chỉ là cái am nhỏ ẩn mình bên hang núi. Sau nhiều lần tu tạo, chùa Thầy ngày một thêm kì vĩ. Khu chính điện của chùa tọa lạc trên một khuôn viên hình chữ nhật, dài 60m, rộng 40m, gồm ba toàn nhà to, dài xây song song hình chữ tam. Hai bên tòa chính điện là gác chuông và gác trống nhô cao.
Chùa Thầy có hàng trăm pho tượng sơn son thếp vàng, khói hương nghi ngút suốt đêm ngày. Chùa Thượng có tượng Di Đà Tam Tôn, Bách hoa Đài (bệ đá trăm hoa), toàn thân Thiền sư Từ Đạo Hạnh nhập định trên toàn sen vàng.
Chùa Trung thờ Tam Bảo. Chùa Hạ chỉ để niệm Phật, lễ bái, cầu siêu, giảng đạo.
Rời chùa Cả, du khách, Phật tư đi qua Nguyệt Tiên Kiều và cổng Bất nhi Pháp môn để lên núi Sài Sơn. Du khách leo qua nhiều bậc đá, đi vào chùa Cao thắp hương, đến hang Thánh Hóa, nơi Từ Đạo Hạnh hóa Phật. Đến thăm hang Các Cớ:
"Ở chùa Thầy có hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy."
(Ca dao)
Dân gian tin rằng trai tơ, gái tơ có vào thăm hang Cắc Cớ một lần thì mới có thể tìm được tình duyên đẹp, hạnh phúc ấm êm.
Đứng trên đỉnh núi Sài Sơn nhìn ra bốn phía là thôn xóm lớp lớp gần xa, là màu xanh bát ngát của đồng lúa, là màu trắng lấp lánh của sông Đáy hiền hòa uốn khúc... Cảnh vật sầm uất, dạt dào sức sống của một miền quê thanh bình.
Chùa Thầy còn có Chợ Trời (chợ cõi âm), nơi cầu may, cầu lộc cho người trần. Bài thơ " Chợ Trời Sài Sơn" được nhiều người truyền tụng:
Hóa công xây đắp đã bao đời, Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời. Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng, Ban chiều mây họp, tối trăng chơi. Bày hàng hoa quả, tư mùa sẵn, Mở phố giang sơn, bốn mặt ngồi. Bán lợi mua danh nào những kẻ, Chẳng lên mặc cả một đôi lời. Hồ Xuân Hương.
Phong cảnh chùa Thầy rất đẹp, có sơn thủy hữu tình, gắn liền với nhiều huyền tích, huyền thoại. Lễ hội chùa Thầy là một lễ hội dân gian lớn nhất, đông vui nhất trong mùa xuân trên miền Bắc nước ta. Dân gian vẫn lưu luyến câu ca, câu hát: "Nhớ ngày mùng Bảy tháng Ba, Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy"
Cho mình câu trả lời hay nhất nhe
Dân gian từ lâu đã có câu:
“Nhất tui là hội chùa Thầy”
Và:
“Nhớ ngày mồng 7 tháng 3
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thày”
Hội Láng và hội Thấy có liên quan với nhà. mật thiết bởi vì Láng (tức An Lãng, huyện Vĩnh Thuận nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội) là quá hương của Thiền sư Từ Đạo Hạnh tên tục là Từ Lô. con quan Đô sát Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan: Còn hội Thầy ở xã Hoài Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Tây là nơi lưu dấu tu hành của vị cao tăng đời Lý. Chùa Thiên Phúc ở núi Hoài Sơn. Sử ghi chép vua Lý Thánh Tông xây dựng tháng 12 năm Long Thuy Thái Bình 4 (1-1508). Tương truyền vua Lý Nhân Tông tuổi cao mà chưa có con trai nối ngôi bèn xuống chiếu chọn con của các tổn thất để lập làm Hoàng tử. Em vua là Sung Hiền Hầu cũng chưa có con trai, gặp lúc nhà sư ở núi Sài Sơn là Từ Đài Hạnh đến chơi nhà, ngài nói với Đạo Hạnh về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn rằng: “Bao giờ phu nhân say đến ngày sinh thì báo cho tôi biết trước”. Từ đó là Hanh cầu khấn sơn thân, ba năm sau phu nhân Đỗ Thị có mang . Phu nhân trở dạ mãi không đẻ được SùngHiền Hầu nhớ lời Từ Đạo Hạnh dạn liên sau 1 ngựa đi báo. Đạo Hạnh lập tức thay áo tắm rồi vào hang núi trút xác mà qua đời. Hang đó hạng Thánh hóa, còn có vết đập trán trên đá. ở thời phu nhân họ Đỗ sinh con trai. Đặt tên là Lý Dương Hoán. Lên 2 tuổi được vua Lý Nhân Tông n lập làm Hoàng tử (1117) rồi lên ngôi vua 1.1128) tức vua Lý Thân Tông. Vậy là Thân Tông Là thân sau của Đạo Hạnh. Dân làng cho là việc lạ kỳ đem thi hài Đạo Hạnh làm cốt đắp thành pho tương để thờ. Lại sửa chữa am Hương Hải và viện Bồ Đà là nơi tu hành của Đạo Hạnh trước khi thành chùa lớn (gọi là chùa Cả). Tượng Từ Đạo Hạnh về sau bị quân Minh đốt cháy, dân làng đắp lại như cũ. Đời Lê Thánh Tông, vua sai Thái uý Trinh Quốc Công Nguyễn Đức Trung lo việc trùng tu theo quy mô cũ. Sau đó, Vua đến thăm chùa có làm bài Đề Sài Sơn tự cho khắc biển ngạch treo trong nhà.Năm 1570 thời Mạc Mậu Hợp, dân làng lại tusửa chùa, tô lại tượng Phật, dựng bia, Chùa Thiên Phúc trở thành chốn danh lam. Đến năm 1653 thời | Lê có bà cung tần Nguyễn Thị Ngọc Liên đã phát tâm bồ đề bỏ ra 200 lạng bạc và 4 mẫu ruộng giúp 1 chúa Trịnh thường đến thăm và lỗ chùa. dân làng tu sửa chùa.
Vua lê , chúa Trịnh thường đến thăm và lễ chùa, Trịnh Căn có thơ Nôm vịnh cảnh chùa. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1739-1782) lại cho tu sửa chùa và mở mang rộng rãi. CHùa chính làm theo lỗi tam cấp, mỗi cấp là một tòa nhà mái cong , các cột ván bưng đều có chạm trổ tinh khéo.
Về kiến trúc, lúc đầu chỉ là một thảo a mang tên Hương Hải am, sau dần dần xây thành quy mô lớn. Trước cửa chùa có một hồ. rộng gọi là hồ Long Trì (ao rồng), giữa hồ Thuỷ Đình nơi biểu diễn trò múa rối nước trong hội. Hai bên chùa có 2 chiếc cầu mái lợp theo. “Thượng gia hạ kiều” (trên là nhà, dưới là câu) D trái là Nhật Tiên Kiều thông ra Tam phủ trên đảo nhỏ giữa ao rồng. Bên phải là Nguyệt Tiên KG. bắc qua ao lên núi. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng) xây dựng cung tiến vào năm 1602 sau khi đi sứ nhà Minh về. Thế là:
Hai lầng nhật nguyệt xuống ao này
Múa với hoa sen mới nở đây.
Toàn khu chính điện là một khuôn viên hình chữ nhật rộng 40 mét, dài 60 mét, gồm 3 nhà to dài xây Song song hình chữ tam (III), có 2 dãy hành lang chạy kèm 2 bên các đầu hồi. Ngôi bảo điện đồ sộ như thế mà chỉ có 36 lỗ đục, gỗ được xếp chồng lên nhau nhưng rất vững chắc. Hai bên toà chính điện là gác chuông và gác trống nhô cao.
Chùa Thượng, trên có tượng Di Đà tạm tốn, dưới là bệ đá trăm hoa tạc từ thời Trần, trên để hòm sao tôn phong Thiền sư Đạo Hạnh, dưới là tượng Thíc” sự nhập Định trên toà sen. Gian bên trái thơ tưỘ5 toàn thân Thiền sư bằng gỗ chiên đàn đặt trong khám. Tương truyền xưa mỗi lần mở khám thì tượng từ từ đứng dậy, đóng cửa thì tương lại từ từ ngồi xuống Về sau, Tuần phủ Sơn Tây Cao Xuân Dục có bàn với các bô lão phàm, để N.Từ đó mới cắt –5 lão trong xã: Thánh thì không phải chào người , để Ngài đứng dậy mỗi lần mở cửa thì là thất lễ. . Tới cắt dây máy và tượng ngồi luôn.Gian bên phải là tượng vua Lý Thần Tông đặt An ngai vàng. Tượng tạc vào năm 1999 thời Lê Chân Tông, đến năm 1735 – 1740 vua Lê Ý Tông chothêm 2 tượng: vua Chiêm và đối phương gỗ đặt trước tượng vua.
Chùa Hạ là nơi lễ bái, giảng đạo.
Đi lên lưng chừng núi có Chùa Cao (Hiến Thuỵ -) với hang Thánh hóa – một động nhỏ hẹp lờ mờ và huyền bí, nhìn kỹ mới thấy vết lõm ở vách đá.
Leo lên đỉnh núi, có một khoảng đất bằng, xung quanh có nhiều mô đá châu vào đó là chợ trời
Buổi sớm mưa tan, trưa nắng giải
Ban chiều may họp, lối trăng chơi
Bày hàng hoa quả, tứ mùa đủ
Giải thẻ giang sơn, bốn mặt ngồi.
Đi vòng về phía sau, có lối rẽ tới hang Cắc Cớ. Hang sâu rất tốt, tượng truyền nơi đây là nơi tuần tiết của nghĩa quân Lã Gia sau trận chống ngoại xâm thất bại.
| Men theo sườn núi đến đền Thượng – nơi thở thánh Văn Xương, nơi hội họp của Đông Kinh Nghĩa Thục xưa kia. Đi tiếp xuống đến chùa Bối Am (tục gọi là chùa một mái). Bên cạnh có hang Hút Gió, thêm đá Thái Lão, đền kỷ niệm Phan Huy Chú, nhà lưu niệm Bác Hồ – 3 lần về thăm và làm việc tại chùa thời kháng chiến.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK