Trang chủ Ngữ văn Lớp 7 đánh giá công lao của Trần Quốc Tuấn và Lê...

đánh giá công lao của Trần Quốc Tuấn và Lê Lợi trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước câu hỏi 754770 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

đánh giá công lao của Trần Quốc Tuấn và Lê Lợi trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước

Lời giải 1 :

- Trần Quốc Tuấn:

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sinh năm Bính Tuất (1226), mất năm Canh Tý (1300), là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, thuộc dòng trưởng của họ Trần ở Tức Mặc (Nam Định), nhưng lại không phải là dòng chính làm vua. Ông mang trong mình dòng máu thượng võ của tổ tiên, thông minh xuất chúng, được đào tạo, rèn cặp kỹ càng, đọc rộng biết nhiều, giỏi cả văn lẫn võ, được tôn vinh là một bậc kỳ tài.

Với tài năng lỗi lạc và những công lao cống hiến to lớn, Trần Quốc Tuấn đã được anh họ là Thượng hoàng Trần Thánh Tông và cháu họ là vua Trần Nhân Tông tin tưởng phong làm Quốc công tiết chế, giao nắm giữ quyền lực cực lớn, điều khiển toàn bộ lực lượng quân sự, đứng đầu bộ máy kháng chiến của triều Trần trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên (1285, 1287 - 1288).

Vào thời điểm ngay trước khi cuộc kháng chiến bắt đầu, khi Nhà vua Trần Nhân Tông hỏi về thế giặc Nguyên, Trần Quốc Tuấn đã phân tích một cách sâu sắc, đầy trí tuệ và niềm tin tất thắng: “Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng trốn chạy. Nhờ uy linh của tổ tông và thần võ của bệ hạ, nên đã quét sạch được bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm nớp cái thất bại của Hằng, Quán không còn ý chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, quân dân nhà Trần đã bình tĩnh, tự tin bước vào cuộc chiến đấu. Bằng một cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp do quân đội chủ lực của triều đình làm nòng cốt, với những cuộc rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng khi thế giặc mạnh, tạo thế trận vườn không nhà trống, đồng thời tiến hành các trận đánh nhỏ lẻ để tiêu hao sinh lực địch, Trần Quốc Tuấn đã chủ động từng bước thay đổi tương quan lực lượng trên chiến trường theo hướng ngày càng có lợi cho quân dân Đại Việt.

Khi quân Nguyên bị dồn ép vào tình thế cùng quẫn, buộc phải rút về nước, Trần Quốc Tuấn đã chớp thời cơ tổ chức lực lượng dốc sức đánh trận Bạch Đằng lịch sử đầu năm Mậu Tý (1288), làm kinh hồn bạt vía quân thù. Vó ngựa của đội quân thiện chiến bậc nhất trong lịch sử nhân loại đã bị chặn đứng bởi quân dân Đại Việt, mở ra thời kỳ hòa bình, thịnh trị lâu dài. Đây là một trong những chiến công hiển hách nhất, là đỉnh cao trong lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là nghệ thuật đánh giặc trên chiến trường sông nước.

Là một danh tướng, Trần Quốc Tuấn cũng là một nhà văn hóa lớn. Ông giỏi tâm lý, biết cách thu phục lòng quân để giữ yên lòng dân, ra sức đoàn kết tướng sĩ, đoàn kết quân dân, đoàn kết Vương triều tạo nên sức mạnh vô địch cho cả quốc gia - dân tộc.Không chỉ giỏi cầm quân đánh trận, Trần Quốc Tuấn còn là một nhà lý luận quân sự xuất sắc, một nhà tư tưởng quân sự đại tài. Ông đã dày công nghiên cứu binh pháp và biên soạn hai bộ binh thư mới là Binh gia diệu lý yếu lược (tức Binh thư yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư (tức Vạn Kiếp binh thư) để trang bị hệ thống lý luận quân sự vững chắc cho quân đội Đại Việt. Điều này là chưa từng có trước đó trong dọc dài lịch sử quốc gia - dân tộc Việt Nam.

Sách Binh gia diệu lý yếu lược dạy về thuật tổ chức, lãnh đạo quân đội, tuyển tướng, nghệ thuật tác chiến, dùng binh, dùng gián điệp, thủy chiến, hỏa công... không chỉ đúc kết kinh nghiệm thực tiễn từ cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc mà còn là sự vận dụng đầy sáng tạo binh pháp của những nhà quân sự kiệt xuất của Trung Hoa cổ đại.

Vạn Kiếp tông bí truyền thư thiên về phần thực hành tác chiến, do Trần Quốc Tuấn nghiên cứu sáng tạo làm thành “bát quái cửu cung đồ” để đào tạo thực chiến cho các võ quan, tướng lĩnh thời Trần.

Đây chính là hai bộ sách quân sự đầu tiên của dân tộc Việt Nam, đã tổng kết được các kinh nghiệm quân sự của nhân loại và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Đại Việt thời bấy giờ. Khi Trần Quốc Tuấn biên soạn thành công Binh gia diệu lý yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, cũng đồng thời khai sinh nền khoa học quân sự Việt Nam. Những cống hiến về lý luận và thực tiễn hoạt động quân sự đã nâng Trần Quốc Tuấn lên thành một trong những anh hùng kiệt xuất nhất của dân tộc qua mọi thời đại. Đáng tiếc là nguyên bản hai tác phẩm này đều đã thất truyền, bản Binh thư yếu lược được lưu lại cho đến nay đã qua sửa chữa, bổ sung, cải biến. Tuy trải qua bao biến thiên lịch sử, những lý luận, kinh nghiệm quý báu về quân sự trong Binh thư yếu lược vẫn còn nhiều giá trị tham khảo đối với nền khoa học quân sự Việt Nam.

Là một danh tướng, Trần Quốc Tuấn cũng là một nhà văn hóa lớn. Ông giỏi tâm lý, biết cách thu phục lòng quân để giữ yên lòng dân, ra sức đoàn kết tướng sĩ, đoàn kết quân dân, đoàn kết Vương triều tạo nên sức mạnh vô địch cho cả quốc gia - dân tộc. Ông có một tấm lòng son sắt vì vua vì nước, sẵn sàng chủ động dẹp bỏ những hiềm khích cá nhân, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại nhiều câu chuyện cảm động về nhân cách lớn của Trần Quốc Tuấn.

Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải là anh em con chú con bác, cũng là những người đứng đầu trong hoàng tộc Trần và triều đình Đại Việt lúc đó. Tuy nhiên, trong dòng họ và triều đình có chút khúc mắc nên hai ông vẫn có phần không ưa nhau. Trước nguy cơ ngoại xâm, hai vị đầu lĩnh đã chủ động gác bỏ hiềm khích riêng, chung tay giúp vua chống giặc.

Một hôm, Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp (Hải Dương) về Thăng Long (Hà Nội), Trần Quang Khải đích thân xuống thuyền của Trần Quốc Tuấn chơi suốt cả ngày. Trần Quốc Tuấn biết tính Trần Quang Khải ngại việc tắm gội, liền đun sẵn nước thơm, bảo đùa Trần Quang Khải rằng: “Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo người em họ là Thượng tướng Thái sư ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”. Trần Quang Khải cũng vui vẻ nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”. Từ đó, tình nghĩa và mối quan hệ qua lại giữa hai vị đứng đầu dòng tộc Trần và triều đình Đại Việt càng thêm mặn mà, nồng ấm.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là bậc danh nhân trọn vẹn cả Đức và Tài. Ông chính là biểu tượng hội tụ sức mạnh hào khí Đông A của nước Đại Việt thời Trần. Trước khi qua đời, Trần Quốc Tuấn còn trao truyền lại bài học lịch sử “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức. Vả lại, khoan thư sức dân là kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đó thực sự là chiếc “chìa khóa vàng” để các thế hệ người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai cùng nhau chung sức, chung lòng dựng nước và giữ nước.

- Lê Lợi

Lê Lợi sinh ra trong một gia đình giàu có, có hàng nghìn tôi tớ ở Thanh Hóa, trưởng thành trong thời kỳ Nhà Minh đô hộ nước Việt. Thời bấy giờ có nhiều cuộc khởi nghĩa của người Việt nổ ra chống lại quân Minh nhưng đều thất bại. Năm 1418, Lê Lợi tổ chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với lực lượng ban đầu chỉ khoảng vài nghìn người. Thời gian đầu ông hoạt động ở vùng thượng du Thanh Hóa, quân Minh đã huy động lực lượng tới hàng vạn quân để đàn áp, nhưng bằng cách hoặc trốn tránh hoặc sử dụng chiến thuật phục kích hoặc hòa hoãn, nghĩa quân Lam Sơn đã lớn mạnh dần lên. 5 năm sau (1424), Lê Lợi quyết định đánh vào Nghệ An, Thuận Hóa, liên tục thắng trận rồi trở ra giải phóng Thanh Hóa. Tới năm 1426, quân Lam Sơn đã làm chủ từ Thanh Hóa tới Thuận Hóa, quân Minh chỉ còn co cụm trong các thành Nghệ An, Thuận Hóa và Thanh Hóa.

Năm 1426, ông cử 3 đạo quân tiến ra Bắc, trong khi nhà Minh cử một lực lượng lớn do Vương Thông chỉ huy sang tiếp viện. Hai cánh quân của Lê Lợi kết hợp với nhau, đánh bại quân Minh ở trận Tốt Động – Chúc Động, ép Vương Thông lui vào Đông Quan cố thủ. Nghe tin, Lê Lợi lập tức mang đại quân ra Bắc, tổ chức lại quân đội, phân chia hành chính, ban hành các đạo dụ răn quân lính và nhân dân,... lập thế trận bao vây quân Minh. Nhà Minh lại tiếp tục sai các tướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh mang quân sang tiếp viện, Lê Lợi sai quân ngăn chặn và đánh bại hoàn toàn hai đạo quân tiếp viện này. Vương Thông cùng đường phải xin hòa với quân Lam Sơn khi chưa được sự cho phép của triều đình Minh. Bất chấp sự phản đối của tướng lĩnh và dân chúng, Lê Lợi không những cho phép quân Minh được rút lui an toàn mà còn chu cấp vật tư như thuyền bè, tu sửa đường sá,... cho họ. Đến ngày 17 tháng 12 năm 1427 (âm lịch) quân Minh chính thức về nước, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thay mình làm bài Bình Ngô đại cáo bá cáo cho thiên hạ biết về việc quân Minh đã giảng hòa, rút quân về nước, Nam Bắc thôi việc binh đao, thiên hạ đại định.

Năm 1428, lên ngôi vua, Lê Lợi từ điện Tranh ở Bồ Đề vào thành Đông Quan, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, lấy Đông Kinh làm thủ đô, xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam sơn động chủ, sử gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế, dựng lên hoàng triều Lê (sử Việt Nam hiện đại gọi là nhà Hậu Lê). Lê Lợi đã xây dựng lại khoa cử, luật lệ, kinh tế, chế tác lễ nhạc, đồng thời thu thập lại sách vở, mở mang trường học... làm cho nước Đại Việt được thịnh trị. Ông còn dẹp yên các thổ tù chống đối ở vùng biên viễn phía Tây như Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái (châu Thạch Lâm) và Đèo Cát Hãn (châu Mường Lễ), đánh bại một cánh quân Ai Lao sang giúp Hãn.

Ông được các sử gia đánh giá cao ở tài năng chính trị, quân sự, kinh tế, nhưng một số sử gia hiện đại lại chỉ trích vì cho rằng ông đã làm hại hai công thần Trần Nguyên Hãn  Phạm Văn Xảo.Tuy nhiên, các sử gia Lê Quý Đôn, Trần Quốc Vượng và Tạ Chí Đại Trường cho rằng Trần Nguyên Hãn  Phạm Văn Xảo đã phạm tội.Khi Việt Nam bị người Pháp đô hộ, những người chủ trương khôi phục quốc gia đã coi Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn như là hình mẫu, niềm cảm hứng và biểu tượng của sự đoàn kết quốc gia. Như Phan Bội Châu coi ông là hình ảnh chói lọi của vị Tổ Trung hưng thứ hai sau Ngô Quyền. Trong Chiến tranh Việt Nam (1945-1975) để đề ra chiến lược đánh Pháp và Mĩ, lãnh tụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa  Trường Chinh viết cuốn sách Kháng chiến nhất định thắng lợi đã lấy cuộc kháng chiến 10 năm của Lê Lợi làm ví dụ cho việc kháng chiến trường kì, coi đó là niềm cảm hứng để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Thảo luận

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 7

Lớp 7 - Năm thứ hai ở cấp trung học cơ sở, một cuồng quay mới lại đến vẫn bước tiếp trên đường đời học sinh. Học tập vẫn là nhiệm vụ chính!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK