Mình chỉ biết làm từ đầu đến kịp tối nay thôi mông bạn thông cảm nha:))
Nếu như thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ Mới gắn liền với những cảm xúc cá nhân. Có thể thấy giai đoạn 1932-1945 là giai đoạn nở rộ của cái tôn cá nhân người nghệ sĩ. Nhà thơ Hàn Mạc Tử đã nói rằng: " tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Về cơ bản thơ ông luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buôn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn mặc Tử
Mở đầu khổ thơ với hình ảnh " gió" và "mây":
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thui hoa bắp lay
Gió và mây luôn luôn gắn bó với nhau " gió thổi mây bay" nhưng trong khổ thơ này hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả. Câu thơ tách thành hai vế khác nhau, mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh gió khép lại cũng gió, mở đầu vế thứ hai là mây thì kết thúc cũng là mây. Từ đó ta thấy "gió" và "mây" như những kẻ xa lạ, quay lưng với nhau. Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt ấy. Dòng nước cũng chỉ là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa " dòng nước buồn thiu" khiến nó trở nên có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy " buồn thiu" của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Và dường như sự chảy trôi vô định của dòng nước thấm đẫm nỗi buồn li tán của sự vận động giữa mây và gió cũng có thể là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật. Như Nguyễn Du đã nói " người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những "hoa bắp lay" khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp "lay" ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ. Sông Hương vốn đẹp đẽ và thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng “buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Hai câu thơ đã mở ra bức tranh thiên nhiên ảm đạm nỗi buồn hiu hắt mang dự cảm về hạnh phúc chia li nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi yếu ớt. Thi sĩ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của tâm trạng, tâm hồn mang mặc cảm của một người luôn gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa.
Hai câu thơ tiếp là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhân vật trữ tình về sông nước, đêm trăng và tâm trạng xót xa, nuối tiếc:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảnh sông nước được miêu tả gắn với hình tượng trăng. Sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bến trở thành bến trăng gợi không khí mơ hồ huyền ảo, đẹp một cách thơ mộng làm cho không gian nghệ thuật ở đây càng thêm hư ảo, mênh mang. Dòng sông của hiện thực đã trở thành dòng sông của cõi mộng. Cảnh vật đã được ảo hóa gợi lên cảm giác chơi vơi trong tâm trạng của nhà thơ. Hình ảnh con thuyền cô đơn nằm trên bến sông trăng là một hình ảnh sáng tạo độc đáo của tác giả, nó mang theo những nỗi niềm của thi sĩ. Nếu mọi vật đang trong thế chia lìa, li tán thì chỉ có trăng là đi ngược lại với tất cả để trở về với thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ đang rợn ngợp trong nỗi cô đơn, tưởng như mình bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Trong khoảnh khắc ấy thi sĩ chỉ còn biết mong đợi một hình ảnh duy nhất là trăng. Câu cuối cùng là câu hỏi ẩn chứa biết bao nỗi niềm khắc khoải, lo âu bởi quỹ thời gian còn lại rất ngắn ngủi mà trăng thì vẫn quá xa xôi. Tâm trạng trữ tình phấp phỏng, lo âu được thể hiện qua từ "kịp" vừa như mong chờ hi vọng một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Điều đó đã khiến thời gian "tối nay" càng trở nên ngắn ngủi, như một giới hạn trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của thi nhân. Qua hai câu thơ ta thấy được bức tranh thiên nhiên sông nước xứ Huế buồn hiu hắt trong đêm trăng chở nặng nỗi niềm ưu tư của thi nhân. Tất cả bức tranh ấy thể hiện qua một câu hỏi tu từ da diết và khắc khoải. Trăng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật huyền thoại, một nơi chốn để tâm hồn thi sĩ được phiêu diêu, thoát tục.
Chúc bạn học tốt !!
Hàn Mặc Tử là một trong số những nhà thơ xuất sắc của phong trào “Thơ mới”. Ông đã để lại nhiều tập thơ đặc sắc, trong đó có những bài thơ rất trong trẻo và tươi sáng, hình ảnh đẹp như trong ca dao, cổ tích. Đó là các bài Tình quê, Mùa xuân chín và đặc biệt là bài Đây thôn Vĩ Dạ, in trong tập Thơ Điên của nhà thơ. "Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ viết về Huế, viết cho Huế, bộc lộ lòng mến yêu của tác giả trước một xứ sở đẹp và thơ, với những hình ảnh của cảnh và người xứ Huế thơ mộng. Khổ thơ bình giảng là khố thơ thứ hai:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay .
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra:
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình cũ có đậm đà?
Ở khổ thơ này, tâm trí Hàn Mặc Tử hướng về một hình ảnh không thể tách rời thôn Vĩa Dạ, đó là dòng sông Hương với hai nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ mộng, đồng thời ẩn sâu trong đó biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Hai câu thơ tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai của xứ Huế: gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng nước chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và dòng sông đã tạo sắc thái cảm xúc ở hai câu thơ này. Gió thổi mây bay và nhờ gió mà dòng sông mới có sóng, có sự sống động nhưng ở đây mây và gió lại rời xa nhau. Sự chuyển động ngược chiều của gió mây làm tăng thêm cái trống vắng của không gian; hay nói đúng hơn, rất ít mây và gió nên dòng sông lặng lẽ buồn thiu và cây cỏ bên bờ chỉ lay động rất nhẹ. Nhìn chung, đó là một hình ảnh đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự thờ ơ, xa cách của cuộc đời đối với mình.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hai câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà như hư ảo, vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đây là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Có thể nói ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử đã phác họa được nét dẹp của sông Hương là vẻ huyền ảo, thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ thứ hai, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi vì nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải một tối nào khác. Phải chăng trong cái tối nay đó, một buổi tôi thật buồn và cô đơn, nhà thơ có điều gì muốn tâm sự mà riêng chỉ có trăng mới hiểu được nhà thơ? Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng là người bạn thân thiết củanhà thơ. Cũng như nhà thơ rất yêu xứ Huế nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ mới phải mong muốn tâm sự với một người bạn nơi xa vời là vầng trăng - ánh trăng xoa dịu nỗi xót xa, khi có trăng bầu bạn thì con người sẽ bớt cô đơn.
Cùng với khổ đầu và khổ cuối, khổ thơ thứ hai của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã dệt nên những hình ảnh thơ bằng một thứ ngôn từ trong suốt, đẹp đẽ và gợi cảm, đọng lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng da diết, khó phai mờ về một xứ Huế thơ mộng và thân thương.Người đọc yêu mến bài thơ, vì biết rằng bài thơ này đã được tác giả viết ra từ một tâm hồn đau khổ, nhưng luôn gắn bó thiết tha với cuộc đời và con người bằng một tình yêu trần thế.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK