Phân tích
Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi sáng tác vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 để tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đồng thời cũng tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã kết thúc thắng lợi. Nó mở ra cho dân tộc ta một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập tự do và hòa bình.
1. Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của "Bình Ngô đại cáo ”, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo ".
Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa vẫn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, phải đánh giặc để cứu nước, cứu dân; "triết lí nhân nghĩa của NguyễnTrãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân” (Phạm Văn Đồng).
Nền văn hiến Đại Việt, nền "văn hoá Thăng Long" được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử "đã lâu ", đã có "từ trước " đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền "núi sông bờ cõi”, màcòn thuần phong mĩ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng "bao giờ gây nền độc lập ”, đã từng “xưng đế một phương”, có nhiều nhân tài, hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại Đinh, Lê, Lí, Trần..., phải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đỏ, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống...)
phải có những con người “trí mưu tài thức " đã làm nên "thi thư” của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy. Nếu như bốn trăm nămvề trước, trong “Nam Quốc sơn hà ", Lí Thường Kiệt chí mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong "Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi.
2. Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ.
Năm 1407, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ”, nhưng sau đó, chúng đã chia đất nước ta thành quận huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác:
"Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn quan tà còn bán nước cầu vinh”
Nguyễn Trãi đã căm giận lên án tội ác vô cùng dã man của quân "cuồng Minh Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách man rợ:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Sử sách còn ghi lại bao tội ác chồng chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”: rán mỡ người lấy dầu, rút ruột người treo lên cây, thui người trên giàn lửa, phanh thây đàn bà có thai... Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng sâu đãi cát, tìm vàng, cống nạp ngà voi, hươu đen, trả biếc,... Sưu thuê chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng đã tàn phá môi sinh , môi trường, dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào hố diệt vong
3. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, các bài thơ “Hạ tiệp ”, "Đề kiếm "... đều có nói đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong "Bình Ngô đại cáo ”, Lê Lợi mới được thể hiện một cách tuyệt đẹp, tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của Đại Việt.
Ngày đầu khởi nghĩa, quân không quá 2.000 người, có lúc “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh ... khí giới thì thật tay không”.(Quân trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc vô cùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khỏi nghĩa dấy lên - Chính lúc quân thù đang mạnh”Khó khăn, thử thách chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất là thiếu nhân tài hào kiệt
4. Đánh một trận sạch không kinh ngạc - Đánh hai trận tan tác chim muông.
Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo nói về diễn biến cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sự chiến trường mang giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, ấy là đại nghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát giặc Minh hung tàn, cường bạo. Lời văn sang sảng cất lên:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Có vượt qua những thử thách nặng nề “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần- Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mới trưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Chiến công nối tiếp chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, như “sấm vang chớp giật” giáng xuống đầu quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc chất cao như núi
5. Xã tắc từ đây vững bền.
Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn vang lên hướng về ngày mai tươi sáng của Đại Việt - một nước văn hiến:
"Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Như một quy luật tất yếu: “ bí mà lại thái ”, "hối mà lại minh ”, đất nước ta sau 20 năm trời bị quân cuồng Minh "dối trời, lừa dân..., gây binh kết oán ” nay đã sạch bóng quân xâm lược, “ ngàn năm vết nhục nhã sạch làu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập, hoà bình, thịnh vượng trong “vữngbền”, hướng về “đổi mới ”, và “vững chắc ” đến muôn đời.
thấy rằng trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi có một tác phẩm rất nổi tiếng, chính là “Bình Ngô đại cáo” lưu danh ngàn đời. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” là một phần đầu của bài cáo này. Đoạn trích nêu lên được luận đề về nhân nghĩa. Qua đó, khẳng định chủ quyền dân tộc vốn có của nước Đại Việt.Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Trãi nêu lên luận đề nhân nghĩa rất rõ ràng:“Từng nghe:Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Nhân nghĩa là khái niệm đạo đức trong Nho giáo, nói về cách ứng xử và tình thương giữa người với người. Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy khi sử dụng trong văn thơ. Nhân nghĩa không phải là điều gì xa xôi, mơ hồ mà nhân nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, ấm no và hạnh phúc. Và để làm được điều đó thì quan trọng, thiết yếu là phải diệt giặc tàn bạo. Ở giai đoạn này, dân tộc ta đối mặt với quân Minh.Gia sư giỏi tphcm thấy sau khi nêu vấn đề chính “nhân nghĩa” thì Nguyễn Trãi tiếp tục lập luận để đưa ra những dẫn chứng, chân lí vô cùng sắc bén:“Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,Núi sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác.Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương,Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng có.”Nguyễn Trãi đưa ra nhiều yếu tố mấu chốt để khẳng định chủ quyền dân tộc Đại Việt ta. Chúng ta có thể thấy ở bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn hà” thì chỉ khẳng định chủ quyền trên hai phương diện chính là chủ quyền và lãnh thổ. Đến Nguyễn Trãi thì ông lại đưa thêm các yếu tố khác như: phong tục, tập quán, lịch sử và chế độ riẻng. Với sự nhận thức sâu sắc, đúng đắn về vấn đề chủ quyền thì Nguyễn Trãi xem như là người đã hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc với các yếu tố thuộc về chiều sâu văn hóa.Gia sư tại nhà tphcm cho rằng Nguyễn Trãi sử dụng các từ mang nghĩa biểu đạt tính chất hiển nhiên: từng nghe, vốn xưng, đã lâu, đã chia,... để khẳng định sự tồn tại độc lập lâu dài của đất nước. Ông còn so sánh các triều đại của ta với Trung Quốc bằng biện pháp so sánh rất độc đáo để ai ai cũng nhận ra rằng dân tộc ta cũng có những triều đại xây dựng được nền độc lập.Tác giả sử dụng một giọng văn đanh thép, dõng dạc xuyên suốt đoạn trích càng làm cho ý nghĩa của đoạn trích được chắn chắc, ai đọc cũng phải nhìn nhận. Đại Việt xứng đáng là một quốc gia có độc lập, chủ quyền và dù bất kì kẻ thù lớn mạnh như thế nào nếu xâm lược sẽ bị chuốt lấy bại vong. Dù lúc này hay lúc khác, dù mạnh hay yếu thì ở nước ta vẫn có người tài cao, chí lớn hơn người.Trung tâm tìm gia sư ở tphcm thấy đoạn thơ cuối trong đoạn trích nói lên sự thất bại của kẻ thù:“Vậy nên:Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.”
Nguyễn Trãi liệt kê các dẫn chứng hùng hồn của lịch sử: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết thương vong, Toa Đô bị bắt, Ô Mã bị giết. Những dẫn chứng này cho thấy rõ niềm tự hào dân tộc của tác giả và càng chứng minh lời văn có sức thuyết phục cao.Hai câu thơ cuối tuy ngắn gọn nhưng có ý nghĩa rất quan trọng:“Việc xưa xem xétChứng cớ còn ghi.”Một lần nữa, tác giả khẳng định chân lí tồn tại độc lập của dân tộc ta.Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, ngoài tài năng về quân sự ông còn là một nhà thơ, nhà văn lớn với biết bao tác phẩm để đời. Các tác phẩm thơ cũng như văn chính luận đều đạt đến độ xuất sắc. Trung tâm dạy kèm tại nhà tphcm cho rằng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, logic, mạch lạc và chứng cứ rõ ràng cùng với lí lẽ sắc bén đã phần nào thể hiện đoạn trích như một bản tuyên ngôn độc lập có sức thuyết phục cao. Nước ta là đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử, kẻ xâm lược là phản nhân nghĩa, nhất định thất bại.
chúc bn may mắn nha
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK