Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ "Chiều tối" nằm trong tập thơ "Nhật kí trong tù" đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.
Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không."
Dịch thơ:
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không."
Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.
Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rùng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.
Trong thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường luật, nhất là thể tứ tuyệt, thường có nhãn tự (chữ mắt) như là điểm sáng, cái “thần”, linh hồn của bài thơ. Người ta thường nhắc đến chữ “sầu” trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Nếu chữ “sầu” đọng lại một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong thi phẩm đời Đường, thì chữ “hồng” lại sáng lên một ngọn lửa ấm nóng trong bài thơ Chiều tối của nhà thơ cộng sản Hồ Chí Minh trên đường giải tù qua một xóm núi hẻo lánh:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Lúc ấy, chiều đã muộn. Bác bị giải qua một khu rừng heo hút nơi đất khách quê người. Chỉ có một cánh chim mỏi bay về rừng tìm nơi trú ngụ và một chòm mây cô đơn trôi trên bầu trời, không biết sẽ đi đâu về đâu... Tâm trạng người tù xa xứ cũng vậy. Cả một ngày lê nặng bước chân xiềng xích, mệt mỏi rã rời mà vẫn chưa có điểm dừng chân. Một nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật khiến cho cảnh chiều tối càng thêm vắng vẻ, hiu quạnh, lạnh lẽo. Đó là nỗi buồn nhớ quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng chí của người chiến sĩ cách mạng đang bị giam hãm trong cảnh tù đày gian truân, vất vả.
Nhưng bỗng tứ thơ chuyển đổi khi người tù đi qua một xóm núi bên đường. Không còn cái hiu hắt, lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng vắng lặng, câu thơ bỗng như reo vui lên trước một cảnh sinh hoạt đầm ấm nơi xóm núi:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Con người lao động hiện ra khỏe khoắn, tươi vui, đầy sức sống mặc dù cuộc sống của họ còn nghèo nàn, vất vả (chỉ ăn ngô). Hình ảnh “cô em xóm núi xay ngô tối” hiện lên thật đẹp trong câu thơ, và càng đẹp hơn là cái ánh lửa hồng trong lò than đã tỏa ấm nóng và ánh sáng ra tất cả, đẩy lùi bóng tối và cái lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng. Ngỡ như ngọn lửa hồng đang hắt lên khuôn mặt cô gái làm cho khuôn mặt cô càng thêm rạng rỡ. Tứ thơ chuyển đổi chính là nhờ một chữ “hồng” làm sáng cả bài thơ, đem ấm nóng và sức sống đến cho tác phẩm. “Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả bài thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ”. (Hoàng Trung Thông).
Nhưng do đâu mà có được nhãn tự đó? Do đâu mà một chữ “hồng” đã làm cho người đọc cảm nhận được cái “thần” của bài thơ, linh hồn của bài tứ tuyệt? Chính là do trong lòng thi nhân cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như vậy: ngọn lửa của tình yêu cuộc sống, yêu con người không bao giờ tắt trong lòng nhà thơ Hồ Chí Minh. Ngay cả những lúc mà cuộc sống của người tù ấy không còn nữa, thì tình yêu ấy vẫn còn, và chất thơ vẫn trào lên để kết tụ lại thành một chữ “hồng” tuyệt đẹp. Ở đây, trong cảnh giải tù này, Bác làm gì còn niềm vui cho riêng mình mà chỉ có nỗi đau, nỗi buồn, nhưng chính lúc Người đi qua hẻm núi, nhìn thấy cảnh cô gái xay ngô, thì niềm vui đến ngay, và tứ thơ xuất thần bay lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ. Đó là niềm vui cho người lao động, vì người lao động, và hơn thế, còn là sự trân trọng, nâng niu đối với một hạnh phúc thật bình thường, nhỏ nhoi của người lao động nơi xóm núi. Đúng như Hoài Thanh đã viết: “Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua, nhưng nếu không có một tấm lòng nâng niu trân trọng thì cũng không thể nào ghi lại được trong thơ”.
Chuc ban hoc tot!
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK