Nguyễn Du – một đại thi hào của dân tộc và ông là một trong những nhà văn, nhà thơ xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam. Có thể thấy được cảm hứng xuyên suốt toàn bài “Độc tiểu thanh ký” được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.
Người đọc có thể nhận thấy được ngay từ hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Du trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Người đọc có thể nhận thấy được với hai câu thơ dịch đã thoát lên ý nguyên tắc nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Tác giả Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà dường như cũng chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Có thể nói rằng với cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tượng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi dường như cũng đã lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vườn hoa cạnh Tây Hồ – đây thực sự là một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Thế như câu thơ nói ra như để nhớ về quá khứ và mang một sự xót thương ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ trong dĩ vãng của nàng Tiểu Thanh.
Có thể nhận thấy được chính trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn. Tất cả dường như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Ở đây chỉ một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thư). Nhà thơ cũng cứ một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh ba trăm năm trước, người đọc có thể nhận thấy được chính câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính của Tiểu Thanh. Đồng thời nó là còn cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn.
Tiếp theo là hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thương ngậm ngùi trong hai câu đề như sau:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Nhà thơ Nguyễn Du cũng đã mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Nếu như theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh thần vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Và cả hai câu thơ như cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời nàng Tiểu Thanh cũng chính là một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn, với văn chương để khỏi nguôi ngoai bất hạnh.
Tác giả đã mượn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Ở hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Không chỉ thế cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi người! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của đại thi hào Nguyễn Du.
Có thể nhận thấy được chính từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến qua hai câu luận như sau:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Thông qua đây chúng ta nhận thấy được chính nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ Nguyễn Du cũng còn gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Tác giả như khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ mãi về sau.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)
Có lẽ Nguyễn Du như khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu. Câu hỏi này thực sự là một sự tri ân cũng là một câu hỏi trăn trở, luôn luôn lo lắng cho thân phận của mình. Rằng không biết mai sau này người đời có còn nhớ đến Nguyễn Du như Nguyễn Du cũng đã khóc thương cho sự tài hoa mệnh bạc của nàng tiểu Thanh hay không. Bài thơ đã thực sự đã chạm đến trái tim của người đọc, xót thương cho Tiểu Thanh, thương nhớ tài năng của Nguyễn Du.
- Nàng Tiểu Thanh vừa có tài, vừa có sắc nhưng cuộc đời nàng gặp nhiều bi kịch:
+ Nàng làm vợ lẽ, bị dập vùi, trước tác bị đốt dở dang
+ Nguyễn Du cảm thương trước số phận hẩm hiu, đau khổ của nàng
- Từ bi kịch của bản thân, nghĩ tới số phận trôi nổi, nghiệt ngã của những người có tài văn chương.
- Thành công của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật ( vần, niêm, luật …) nhất là đối :
Chi phấn hữu thần > < Văn chương vô mệnh
liên tử hậu > < lụy phần dư
- Thể hiện dòng vận động nội tâm của tác giả: đi từ một trường hợp cụ thể đến khái quát về thân phận chung của người tài sắc
- Từ ngữ hình ảnh chọn lọc hàm súc, vừa cụ thể vừa khái quát: độc, nhất, chi phấn, văn chương …
`1`
Cảnh đẹp Tây Hồ xưa kia đẹp đẽ và thơ mộng bao nhiêu thì giờ đây lại chẳng còn lại gì, chỉ còn là một bãi hoang phế, đổ nát. Động từ “tẫn” diễn tả sự biến đổi một cách đột ngột đến mức triệt để không còn dấu vết gì, đứng giữa hiện tại nhà thơ bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ mở đầu vừa là niềm cảm thương nuối tiếc cho cái đẹp trong quá khứ bị hủy hoại để cho thấy những dâu bể của cuộc đời thì ở đó số phận của cái đẹp chịu sự chi phối nghiệt ngã của thời gian vô tình “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường”. Cái đẹp ấy gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh - một người con gái xinh đẹp, tài hoa, đã sống những năm tháng cay đắng, cô đơn ở hiện tại này.
Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã đổi thay, niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du , nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy.
`#` `Tranhoang40860`
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK