I.Mở bài:
_Dẫn dắt giới thiệu ý kiến:
_Giới thiệu tác giả (năm sinh năm mất, quê quán, vị trí, học vấn, phong cách nghệ thuật…), tác phẩm (vị trí, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác…)
II.Thân bài
1.Giải thích
_Tiếng lòng: là những tâm tư tình cảm của nhà thơ được truyền tải qua những lời thơ của mình.
_Yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt là tình yêu cuộc sống cháy bỏng, mãnh liệt.
->bài thơ truyền tải, diễn tả tình yêu cuộc sống cháy bỏng mãnh liệt của nhà thơ Xuân Diệu.
2.Chứng minh
a.Hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nghiệt của Xuân Diệu thể hiện qua cách cảm nhận và tái hiện bức tranh thiên nhiên mùa xuân giống như một thiên đường trên mặt đất:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hành mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
_Một thiên nhiên của mùa xuân trần thế:
+Với biện pháp điệp cấu trúc, luyến láy đảo vị trí “của…này đây”, “này đây…của…”, nhà thơ đã say sưa liệt kê phơi bày vẻ đẹp kì diệu, tràn sức sống, đầy tình tứ của thiên nhiên, cuộc sống nơi trần thế thân quen, gần gũi, tưởng như chỉ với tay là ôm choàng lấy được.
+Thi sĩ đã căng mở tất cả các giác quan để cảm nhận và tái hiện một khu vườn xuân như một bữa tiệc đầy đủ hương vị, thanh sắc.
->Cách đón nhận vẻ đẹp mùa xuân trần thế đã cho thấy tình yêu cuộc sống say đắm.
_Một thiên nhiên của màu xuân tình yêu:
+Bằng cái nhìn trẻ trung, cặp mắt xanh non biếc rờn, với quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và tiến bộ - lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, Xuân diệu đã khắc họa một khu vườn xuân mang vẻ đẹp rất riêng, rất lạ: vườn xuân cũng chính lá vườn yêu, vườn tình. Trong khu vườn ấy có vạn vật gắn kết với nhau thành đôi thành cặp.
+Trước vẻ đẹp kì diệu của mùa xuân, câu thơ cuối là lợi ngợi ca táo bạo của thi nhân – cũng là người tình nhân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
b.Hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt của Xuân Diệu thể hiện qua sự nuối tiếc trong nhận thức về thời gian tuyến tính một đi không trở lại:
Tôi sung sướng. Nhưng vôi vàng một nửa…
…Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa
*Trước cảnh đẹp say lòng và cảm thức về thời gian đang trôi, nhân vật trữ tình thể hiện sự băn khoăn tiếc nuối đầy nhạy cảm:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
_Câu thơ có cú pháp bất thường, dấu chấm giữa dòng đã chú ý thể hiện hai nét tâm trạng, cũng là hai nội dung tư tưởng chủ đạo của toàn bài thơ: sung sướng (nửa trên) và vội vàng (nửa dưới).
_Cái vội vàng ấy, cụ thể là “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, là tiếc xuân ngay cả khi khí xuân, sắc xuân vẫn tràn trề và bề bộn xung quanh mình, bởi thi nhân quá say đắm vẻ đẹp kì diệu của màu xuân.
*Tâm trạng “vội vàng một nửa” ấy xuất phát từ quan niệm mới mẻ về thời gian: thời gian tuyến tính một đi không trở lại.
_Hai câu thơ đầu đã cụ thể hóa quan niệm mới mẻ ấy:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
+Biện pháp điệp cấu trúc sử dụng kiểu câu định nghĩa “nghĩa là”
+Các cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.
_Trong bảy câu thơ tiếp theo, tác giả đã tạo ra giọng tranh biện như đang đối thoại với ai đó đang yên tâm với quỹ thời gian bốn mùa tuần tự:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bang khuâng tôi tiếc cả đất trời
+Lối định nghĩa tường minh rạch ròi “nghĩa là” một lần nữa được sử dụng, phần nào thể hiện sự bất lực của thi sĩ trước quyền năng của tạo hóa.
+Các cặp từ ngữ đối lập tiếp tục được sử dụng với mật độ dày đặc trong đoạn thơ đã diễn tả bi kịch của con người: rộng – chật; tuần hoàn – chẳng hai lần thắm lại; còn – chẳng còn. Bi kịch ấy là “lòng tôi rộng”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già để tận hưởng hết những vẻ đẹp của cuộc đời nhưng “lượng trời” lại “cứ chật”
_Những câu thơ cuối cùng, nhà thơ tiếp tục chiêm nghiệm:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ! Ôi, chẳng bao giờ nữa!
Mau thi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm…
_Câu thơ “mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” đã tận dụng tối đa ưu thế của biện pháp chuyển đổi cảm giác. Tháng năm mang mùi vị của sự chia phôi, nên mỗi giây phút, thời khắc trôi qua đều gắn liền với những cuộc chia li.
_Vì vậy, nhà thơ cảm nhận được cả bằng tính giác những lời tiễn biệt đang vang lên khắp sông núi của những cuộc chia tay.
c. Hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt của Xuân Diệu thể hiện qua cách nhà thơ tìm đến giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời trước dòng chảy nghiệt ngã của thời gian:
_Giải pháp thứ nhất:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
_Giải pháp thứ hai:
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.
+Một loạt các động từ mạnh đã diễn tả cụ thể ước muốn của thi nhân: ôm – riết – say – thâu – cắn.
+Cũng cần phải chú ý đến các bổ ngữ đứng sau động từ là những hình ảnh tái hiện vẻ đẹp cuộc đời: sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, một cái hôn nhiều, non nước, cây cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, và trái chín xuân hồng…
+Cách sử dụng các tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê diễn tả cảm giác thỏa mãn tận cùng.
3.Bình luận
_Tại sao bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ Xuân Diệu: Đó là đặc trưng của thơ trữ tình như Viên Mai từng nói: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”…
_Tại sao tiếng lòng Xuân Diệu là yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt:
+Do bản thân Xuân Diệu là người đầy nhiệt huyết, tràn trề những năng lượng tích cực, luôn yêu cuộc đời trần thế với tất cả sự mê say của mình.
+Do Xuân Diệu cũng như các nhà thơ mới đã vượt ra khỏi tinh thần và hệ thống ti pháp thơ trung đại, thức tỉnh cái tôi cá nhân, dùng cặp mắt xanh non và biếc rờn của chính mình để cảm nhận và tái hiện bức tranh cuộc sống nên thấy yêu hơn cuộc sống xung quanh mình.
_Tiếng lòng ấy đã tạo nên phong cách nghệ thuật rieng của Xuân Diệu, tạo nên chỗ đứng và vị thế không thể trộn lẫn của Xuân Diệu trong phong trào thơ Mới cũng như trên thi đàn dân tộc.
III.Kết luận
Đề bài:
Bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu là tiếng lòng của “một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt” (Ghi nhớ SGK Ngữ Văn 11).
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
I.Mở bài:
_Dẫn dắt giới thiệu ý kiến:
_Giới thiệu tác giả (năm sinh năm mất, quê quán, vị trí, học vấn, phong cách nghệ thuật…), tác phẩm (vị trí, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác…)
II.Thân bài
1.Giải thích
_Tiếng lòng: là những tâm tư tình cảm của nhà thơ được truyền tải qua những lời thơ của mình.
_Yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt là tình yêu cuộc sống cháy bỏng, mãnh liệt.
->bài thơ truyền tải, diễn tả tình yêu cuộc sống cháy bỏng mãnh liệt của nhà thơ Xuân Diệu.
2.Chứng minh
a.Hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nghiệt của Xuân Diệu thể hiện qua cách cảm nhận và tái hiện bức tranh thiên nhiên mùa xuân giống như một thiên đường trên mặt đất:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hành mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
_Một thiên nhiên của mùa xuân trần thế:
+Với biện pháp điệp cấu trúc, luyến láy đảo vị trí “của…này đây”, “này đây…của…”, nhà thơ đã say sưa liệt kê phơi bày vẻ đẹp kì diệu, tràn sức sống, đầy tình tứ của thiên nhiên, cuộc sống nơi trần thế thân quen, gần gũi, tưởng như chỉ với tay là ôm choàng lấy được.
+Thi sĩ đã căng mở tất cả các giác quan để cảm nhận và tái hiện một khu vườn xuân như một bữa tiệc đầy đủ hương vị, thanh sắc.
->Cách đón nhận vẻ đẹp mùa xuân trần thế đã cho thấy tình yêu cuộc sống say đắm.
_Một thiên nhiên của màu xuân tình yêu:
+Bằng cái nhìn trẻ trung, cặp mắt xanh non biếc rờn, với quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và tiến bộ - lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, Xuân diệu đã khắc họa một khu vườn xuân mang vẻ đẹp rất riêng, rất lạ: vườn xuân cũng chính lá vườn yêu, vườn tình. Trong khu vườn ấy có vạn vật gắn kết với nhau thành đôi thành cặp.
+Trước vẻ đẹp kì diệu của mùa xuân, câu thơ cuối là lợi ngợi ca táo bạo của thi nhân – cũng là người tình nhân “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
b.Hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt của Xuân Diệu thể hiện qua sự nuối tiếc trong nhận thức về thời gian tuyến tính một đi không trở lại:
Tôi sung sướng. Nhưng vôi vàng một nửa…
…Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa
*Trước cảnh đẹp say lòng và cảm thức về thời gian đang trôi, nhân vật trữ tình thể hiện sự băn khoăn tiếc nuối đầy nhạy cảm:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
_Câu thơ có cú pháp bất thường, dấu chấm giữa dòng đã chú ý thể hiện hai nét tâm trạng, cũng là hai nội dung tư tưởng chủ đạo của toàn bài thơ: sung sướng (nửa trên) và vội vàng (nửa dưới).
_Cái vội vàng ấy, cụ thể là “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, là tiếc xuân ngay cả khi khí xuân, sắc xuân vẫn tràn trề và bề bộn xung quanh mình, bởi thi nhân quá say đắm vẻ đẹp kì diệu của màu xuân.
*Tâm trạng “vội vàng một nửa” ấy xuất phát từ quan niệm mới mẻ về thời gian: thời gian tuyến tính một đi không trở lại.
_Hai câu thơ đầu đã cụ thể hóa quan niệm mới mẻ ấy:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
+Biện pháp điệp cấu trúc sử dụng kiểu câu định nghĩa “nghĩa là”
+Các cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.
_Trong bảy câu thơ tiếp theo, tác giả đã tạo ra giọng tranh biện như đang đối thoại với ai đó đang yên tâm với quỹ thời gian bốn mùa tuần tự:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bang khuâng tôi tiếc cả đất trời
+Lối định nghĩa tường minh rạch ròi “nghĩa là” một lần nữa được sử dụng, phần nào thể hiện sự bất lực của thi sĩ trước quyền năng của tạo hóa.
+Các cặp từ ngữ đối lập tiếp tục được sử dụng với mật độ dày đặc trong đoạn thơ đã diễn tả bi kịch của con người: rộng – chật; tuần hoàn – chẳng hai lần thắm lại; còn – chẳng còn. Bi kịch ấy là “lòng tôi rộng”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già để tận hưởng hết những vẻ đẹp của cuộc đời nhưng “lượng trời” lại “cứ chật”
_Những câu thơ cuối cùng, nhà thơ tiếp tục chiêm nghiệm:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ! Ôi, chẳng bao giờ nữa!
Mau thi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm…
_Câu thơ “mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” đã tận dụng tối đa ưu thế của biện pháp chuyển đổi cảm giác. Tháng năm mang mùi vị của sự chia phôi, nên mỗi giây phút, thời khắc trôi qua đều gắn liền với những cuộc chia li.
_Vì vậy, nhà thơ cảm nhận được cả bằng tính giác những lời tiễn biệt đang vang lên khắp sông núi của những cuộc chia tay.
c. Hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt của Xuân Diệu thể hiện qua cách nhà thơ tìm đến giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời trước dòng chảy nghiệt ngã của thời gian:
_Giải pháp thứ nhất:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
_Giải pháp thứ hai:
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.
+Một loạt các động từ mạnh đã diễn tả cụ thể ước muốn của thi nhân: ôm – riết – say – thâu – cắn.
+Cũng cần phải chú ý đến các bổ ngữ đứng sau động từ là những hình ảnh tái hiện vẻ đẹp cuộc đời: sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, một cái hôn nhiều, non nước, cây cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, và trái chín xuân hồng…
+Cách sử dụng các tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê diễn tả cảm giác thỏa mãn tận cùng.
3.Bình luận
_Tại sao bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ Xuân Diệu: Đó là đặc trưng của thơ trữ tình như Viên Mai từng nói: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”…
_Tại sao tiếng lòng Xuân Diệu là yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt:
+Do bản thân Xuân Diệu là người đầy nhiệt huyết, tràn trề những năng lượng tích cực, luôn yêu cuộc đời trần thế với tất cả sự mê say của mình.
+Do Xuân Diệu cũng như các nhà thơ mới đã vượt ra khỏi tinh thần và hệ thống ti pháp thơ trung đại, thức tỉnh cái tôi cá nhân, dùng cặp mắt xanh non và biếc rờn của chính mình để cảm nhận và tái hiện bức tranh cuộc sống nên thấy yêu hơn cuộc sống xung quanh mình.
_Tiếng lòng ấy đã tạo nên phong cách nghệ thuật rieng của Xuân Diệu, tạo nên chỗ đứng và vị thế không thể trộn lẫn của Xuân Diệu trong phong trào thơ Mới cũng như trên thi đàn dân tộc.
III.Kết luận
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK