Trang chủ Ngữ văn Lớp 11 Phân tích bài đây thôn vĩ dạ câu hỏi 582894...

Phân tích bài đây thôn vĩ dạ câu hỏi 582894 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Phân tích bài đây thôn vĩ dạ

Lời giải 1 :

Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ gợi mở ấn tượng chung của cả bài thơ: là nỗi nhớ, là dòng hồi tưởng về cảnh và người thôn Vĩ Dạ.Câu hỏi tu từ mở đầu khổ thơ mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách, vừa mời mọc.
Đây có thể là lời của người con gái thôn Vĩ trách người bạn xa lâu ngày không về chơi.Hoặc cũng có thể là lời của chính tác giả tự nói với lòng mình.
Tác giả Vĩ Dạ đã sử dụng từ chơi thay cho từ thăm vì chơi thân mật hơn, gần gũi hơn, về thăm  nghe chừng khách sáo quá. Bức tranh bình minh thôn Vĩ trong dòng hồi tưởng của tác giả.Nắng là một mô típ ám ảnh trong thơ HMT: nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loan, nắng mới…Nắng mới lên đi liền với hàng cau bởi cau là cây cao nhất trong vườn, nó xuất hiện ở nhiều mảnh vườn trên đất nước Việt Nam. Sau một đêm dài, lá cau được tắm gội trở nên thanh khiết và ánh nắng trên lá cau cũng long lanh hơn. Với HMT tinh hoa của sự sống chính là sự trinh khiết, thanh tân. Đặc biệt thân cau được chia làm nhiều đốt như một cây thước. Khi nắng mai rót vào, vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, khi nó tràn trề, nó biến khu thành một viên ngọc lớn.

Tác giả dùng chữ mướt chứ không phải mượt để mô tả sắc xanh của lá. Mướt gợi lên  vẻ mượt mà đầy sắc xuân. Ngọc là tinh thể trong suốt vừa có màu, vừa có ánh, lại gợi lên vẻ quý phái. HMT vừa đặc tả vẻ đẹp vườn thôn Vĩ như viên ngọc rời rợi sắc xanh, đang tỏa vào ban mai những sắc xanh mướt, vừa tột cùng hóa, tuyệt đối hóa vẻ đẹp đẽ, quí phái của đối tượng.Từ quá – một từ chỉ mức độ, chính nó khiến cho câu thơ mang âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như bất ngờ nhận ra vẻ đẹp của khu vườn.Khổ thơ khép lại bằng hình ảnh mặt chữ điền. Đây là một hình ảnh gây nhiều tranh cãi. Đó là gương mặt phụ nữ hay đàn ông? Lối tạo hình cách điệu hay tả thực.
Đó có thể là khuôn mặt của cô gái thôn Vĩ.Đó là khuôn mặt của chàng trai thôn Vĩ.Khuôn mặt của thi sĩ – Chủ thể trữ tình.Khuôn cửa sổ hình vuông.

 Sự chuyển ý từ khổ 1 sang khổ 2 khá đột ngột: đang từ cảnh bình minh thôn Vĩ, tác giả không hề báo trước hay có sự chuẩn bị gì chuyển ngay sang cảnh dòng sông; đang từ tâm trạng bồi hồi, mong đợi, ao ước chuyển sang tâm trạng buồn hiu hắt.Từng câu chữ, hình ảnh, nhạc điệu trong khổ thơ thấm đẫm mặc cảm chia lìa.
Hai câu đầu thiên nhiên như đang chia lìa đôi ngả tạo nên một thực tại phiêu tán. Tất cả như đang rời bỏ: Gió đi một đường, mây đi một nẻo, dòng nước buồn bã trôi…Như vậy, ở đây xuất hiện một hiện tượng phi logic, trái với lẽ thường. Chúng ta thường biết rằng gió mây không thể tách rời, gió thổi mây bay, gió và mây không thể chia tách vì không có gió mây không thể tự di chuyển. Hình ảnh trong hai câu đầu không đơn giản là hình ảnh của thị giác mà chính là hình ảnh của tâm trạng, của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã tách rời những thứ tưởng như không thể chia lìa nổi.
Nỗi buồn từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương Giang hay dòng nước buồn thiu vì đã mang sẵn trong mình một tâm trạng được phả vào từ chính nỗi niềm mặc cảm của thi nhân.
Động từ lay tự nó không tạo được không gian vui, buồn, sao người đọc vẫn thấy thấm đẫm một nỗi buồn hiu hắt. Nó là nỗi buồn phụ họa với gió mây sông nước hay nỗi buồn sông nước đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp? Có lẽ là cả hai. Dường như hình ảnh hoa bắp lay côi cút bên dòng sông như ẩn chứa thân phận của người thi nhân – thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng. Cảnh và người như có sự hòa làm một.Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ như bị đẩy đi rất xa, nhuốm màu ảo mộng.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
- Trăng là một hình ảnh quen thuộc, trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ thơ Điên không đơn giản chỉ là vẻ đẹp tinh túy và huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Trăng quằn quại, trăng lênh láng, có khi kì quái: “vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”, có khi khêu gợi, lả lơi như một thiếu nữ đa tình Trăng nằm sõng soải trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi; có khi tình tứ Mới lớn lên trăng đã hẹn hò- thơm như tình ái của ni cô.
 Trong bài thơ này xuất hiện hai chữ về. Chữ Về thứ nhất là về với Vĩ Dạ, về với thiên đường trần gian Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Chữ Về thứ hai xuất hiện trong hai câu thơ này là về với Hàn Mặc Từ, về trong này.Ở giữa nơi không có niềm trăng và ý nhạc nên HMT đã đặt tất cả hi vọng vào thế giới mộng ảo: Có chở trăng về kịp tối nay? Trăng trở thành nơi bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh của thi nhân.
Nhưng ngay cả nơi bám víu cuối cùng ấy cũng chứa đựng mầm vô vọng. Đại từ phiếm chỉ thuyền ai khiến cho con thuyền trên sông trăng trở nên mỏng manh như một ảo ảnh.
Chữ kịp trong câu thơ chứa đựng lời khẩn cầu thiết tha của thi sĩ. Nếu trăng không về kịp thì tâm hồn đau thương kia sẽ rơi vào tuyệt vọng hoàn toàn.
Vượt lên trên buồn đau tuyệt vọng, người vẫn hướng tới cái đẹp của tình người, tình đời với một khát khao mãn Vượt lên trên buồn đau tuyệt vọng, người vẫn hướng tới cái đẹp của tình người, tình đời với một khát khao mãnh liệt, biết trân trọng từng phút giây của cuộc đời ngắn ngủi.3. Khổ thơ 3
Ở khổ thơ thứ ba giọng điệu khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Nhịp thơ đến đây trở nên gấp gáp, khẩn khoản hơn.
Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa là hình bóng giai nhân xứ Huế. Điệp từ khách đường xa khiến cho nhịp thơ gấp gáp hơn, hình ảnh càng trở nên mờ ảo.
 Vẻ đẹp trinh khiết chính là chuẩn mực cảm quan thẩm mĩ của HMT. Hình ảnh những thiếu nữ trong thơ HMT bao giờ cũng gắn liền với sự sống động của vẻ trinh khiết, xuân tình. Chính vì vậy, hình ảnh khách đường xa  đã trở thành trung tâm của bức tranh và cũng là trung tâm của bài thơ. Ta biết đặc điểm của thơ Điên là hình ảnh tân kì, kì dị. HMT thường sử dụng những sắc trắng kì dị để miêu tả vẻ đẹp trinh khiết của giai nhân: Chị ấy đêm nay còn gánh thóc/Dọc bờ sông trắng nắng chang chang; Chết rồi xiêm áo trắng như tinh.Câu thơ Áo em trắng quá nhìn không ra không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói nhìn không ra mà chính là cực tả sắc trắng ở độ tột cùng, tuyệt đối của HMT.
Mơ tưởng da diết, khắc khoải hơn hết vẫn là dành cho người tình xa hay đau thương nhất vẫn là phải xa lìa người mình yêu.Hai câu cuối với hình ảnh sương khói chỉ mang tính biểu tượng. Giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh đã có một khoảng cách chia lìa về thời gian và không gian khiến cho con người chỉ còn là bóng ảnh nhạt nhòa. Cái nhìn này xuất phát từ tâm trạng của người ngắm cảnh.Câu hỏi cuối chất chứa đầy những khắc khoải, băn khoăn. Đại từ ai hướng tới cả hai đối tượng; người thôn Vĩ và cái tôi trữ tình. Chủ thể trữ tình không biết được tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà hay không?Và chính giai nhân cũng không biết tình cảm của anh ntn?
Chính vì vậy thi nhân rơi vào tuyệt vọng, hoài nghi.Tình ai ở đây còn là tình đời, tình người. Ai biết cuộc đời, tình đời, còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu. Thi nhân đang tồn tại thật mong manh. Và cái tình kia chính là sợi giây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh xa vời quá!

Thảo luận

-- Em chào cj Pẻo ạ ! Cj Pẻo ơi ? Cj xóa giùm em câu trl của bạn này nhé https://hoidap247.com/cau-hoi/686379 Bạn ấy spam lấy điểm ạ !

Lời giải 2 :

Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao thơ mới, là chủ soái trường thơ loạn, là hiện tượng kì dị và ám ảnh nhất trong thơ ca hiện đại. “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài  thơ là tình yêu của nhà thơ dành cho Huế, đồng thời thể hiện khát vọng hạnh phúc của thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chất chứa biết bao băn khoăn day dứt. Phải chăng bức bưu thiếp xã giao của người con gái mang tên một loài hoa đã trở thành chất xúc tác mở ra cánh cửa tâm hồn của thi sĩ. Để rồi người thi sĩ ấy ngước nhìn ra thế giới ngoài kia:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

Câu thơ đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở trách móc, vừa giới thiệu chào mời. Câu hỏi đó là của ai? Đó không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy phải chăng đó chính là tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở câu thơ đầu, khác nào đặt một niềm thắc mắc, dằn vặt xuyên suốt cả thi phẩm. Để rồi ở tứ thơ nào, hình ảnh nào, dù đẹp đến đâu thì người đọc cũng chợt bâng khuâng nhận ra một nỗi nhớ, nỗi sầu ứ nghẹn bên trong.

Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Phải chăng, ngày Hàn Mặc Tử từng đến thăm “quê” trong tiềm thức là một buổi sớm đẹp đến nao lòng. Bởi lẽ trong cùng một câu thơ, chữ “nắng” được lặp lại đến hai lần. Ánh nắng ấy rực rỡ đến độ đong đầy không gian, vương trên vạn vật, chảy tràn sánh vàng tựa mật. Ánh nắng ấy cũng ấm áp đến độ sưởi ấm, thắp lên chút ánh sáng nơi cõi lòng lạnh lẽo của nhà thơ.

Giữa không gian đầy nắng ấy, thẳng tắp vươn lên những thân cau như nét bút muốn khuấy động cả khoảng trời trong trẻo. Trong khu vườn thôn dã, cau là loài cây cao nhất, đón nắng đầu tiên. Bởi vậy, nắng hàng cau là ánh nắng trong trẻo nhất, thanh tân nhất, thuần khiết nhất. Cây cau chia đốt thẳng, giống như thước đo tự nhiên cân đong mực nắng trong vườn. Mặt trời càng lên cao, mực nắng ấy càng dâng lên cho đến lúc phủ qua tán cau, cũng là bao trùm cả khu vườn bằng thứ sắc màu lấp lánh của nó.

Nếu như các nhà thơ khác trong phong trào Thơ Mới thường miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp đượm buồn:

 “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”

(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)

Thì với Hàn Mặc Tử, ông lại vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy sức sống. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như mang âm hưởng của điệu Nam Ai, Nam Bình, của điệu hò trên sông Hương. “Vườn ai” không chỉ riêng một khu vườn cụ thể nào mà tựa như theo từng nhịp bước chân thi sĩ, hai bên đường đều là những mảnh vườn như thế. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra mà nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới cực tả được vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bừng lên. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

                                             “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”      =>Bình luận, tiểu kết

Người con gái xứ Huế thường gắn với tà áo dài tím mộng mơ, chiếc nón bài thơ “mang hình bóng quê hương”. Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu nữ ấy lại e ấp “che ngang” gương mặt sau “lá trúc”. Một nét vẽ rất đẹp họa ra vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Người xưa có thanh nữ vịn cành mẫu đơn, giai nhân tựa nhành lan, nay lại có “mặt chữ điền” ẩn hiện sau cành trúc, lá trúc.

Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:

“Gió theo lối gió mấy đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Câu thơ đầu tiên với cách ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió mây chia lìa đôi đường đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì gió thổi mây bay. Phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia cách.

Nỗi buồn  từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương giang. Hay dòng nước buồn thiu mang trong mình một tâm trạng được phản vào từ nỗi niềm tâm trạng của thi nhân. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Hương giang không thể tự buồn mà phải chăng thi nhân đã bỏ buồn vào trong đó. Dòng sông lững lờ hay chính là dòng đời mệt mỏi cay đắng đang chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi niềm xa xăm.

Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ được đẩy đi rất xa nhuốm màu ảo mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.”

Trăng là hình ảnh quen thuộc trở đi trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ điên không đơn giản là vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Đây được coi là hai câu thơ tuyệt bút của thi nhân kết tinh rực rỡ bút pháp lãng mạn tài hoa. Nếu “thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng thì “sông trăng” lại  như một nét vẽ thơ mộng chất chứa linh hồn cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả như lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

“Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

   Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.”

Hay:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.”

Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, nơi “không có niềm trăng và ý nhạc” nên giờ đây, trăng đã trở thành nơi bám víu duy nhất- một tri âm, tri kỉ của nhà thơ. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao đến cháy bỏng. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào ba chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.

 Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã gióng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:

“Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương anh nằm chết như trăng

Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc

                                                  Đến thương anh và rửa vết thương tâm.”          => Bình luận, tiểu kết.

 

“Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, là nhịp đập của con tim”. Một trái tim Hàn Mặc Tử, một nỗi lòng dồn nén như được ông thổ lộ qua khổ thơ cuối. Cảnh Vĩ Dạ thôn vào buổi sáng sớm hay dòng sông Hương với con thuyền chở trăng đã không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại niềm bâng khuâng, tiếc nuối:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa còn là hình bóng của giai nhân xứ Huế. Điệp từ “khách đường xa” khiến nhịp thơ trở nên gấp gáp hơn, khiến lời thơ chất chứa biết bao mặc cảm chia li, xa cách.  Chữ "mơ" ở đầu câu gợi về niềm mong ước được trở về thăm Huế và cũng mơ người con gái xứ Huế sẽ chịu vượt đường sá xa xôi để gặp mình. Cũng trong niềm khao khát ấy thi nhân nhìn thấy dường như người con gái ấy trong tà áo trắng. Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra “ không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói mà chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà còn là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả một nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.

Khổ thơ cuối khép lại bài thơ như một lời trách:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

“Ở đây” là không gian nào? Là Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo mà ngày đêm thi sĩ đang phải chống chọi với căn bệnh ác quái? Hình ảnh “sương khói” gợi sự chia cách giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh. Đó phải chăng là sương khói của thời gian, của không gian hay cũng là của mối tình đơn phương vô vọng với mặc cảm chia lìa. Màn sương ấy ngăn cách thi nhân với thế giới bên ngoài, để rồi nhiều luics nhà thơ đã tự hỏi lòng mình:

“Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa

Trời ở trong đây chẳng có mùa

Không có niềm trăng và ý nhạc

Có nàng cung nữ nhớ thương vua”

Và lời hỏi lòng ấy đã bật lên thành câu hỏi khép lại bài thơ. Câu hỏi như chất chứa biết bao khắc khoải, băn khoăn. Đại từ “ai”hướng đến cả hai đối tượng: liệu giai nhân xứ Huế có biết được tình cảm đậm đà mà Hàn Mặc Tử dành cho nàng hay không, liệu tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà như vậy hay không? Vì vậy, thi nhân rơi vào tuyệt vọng và hoài nghi. Tình ai trong câu thơ cuối còn nghĩa là tình đời, tình người. ai biết cuộc đời, tình đời còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu? Và cái tình kia chính là sợi dây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh, xa vời quá.

=>Đánh giá

KB: Theo dấu những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc như lạc trong cuộc hành trình từ thực tại đến mờ ảo, “vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” (Hoài Thanh). Dù thời gian đã trôi qua rất lâu song bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Bài thơ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ thi sĩ họ Hàn, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 11

Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK