- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ rang, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
– Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ - Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Vợ chồng A Phủ - Dạng bài: Bàn luận ý kiến – Yêu cầu: Giải thích được ý kiến bàn luận, đồng thời làm rõ nội dung trọng tâm: hành trình thức tỉnh và đấu tranh của nhân vật Mị thoát khỏi xiềng xích và đến với tự do, hạnh phúc.
| |||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | |||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT | ĐIỂM |
CHUNG | Khái quát vài nét về tác giả - tác phẩm | – Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, là nhà văn có hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. – Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc (1954). Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc. Tác phẩm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời. | 0.5 |
TRỌNG TÂM | Giải thích | – “Con người thức tỉnh” chỉ một dạng nhân vật văn học vốn có số phận bất hạnh nhưng biết vươn lên đấu tranh để thay đổi cuộc đời, giành lại cho mình những niềm hạnh phúc đáng được có. – Mị là nhân vật từng nếm trải nhiều cay đắng, tủi nhục và đau khổ trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột, bị chà đạp, giày xéo mà trở thành con người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý thức về quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất công giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh” giàu ý nghĩa nhân văn. | 0.5 |
Phân tích | – Từ cuộc đời đầy bi kịch: + Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời – truyền kiếp. Quãng đời của Mị ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một người đàn bà ở giữa chốn địa ngục trần gian. + Tuy là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại phải làm việc quần quật như “con trâu, con ngựa”, sống vô cảm vô hồn, không có ý thức về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu, cam chịu, nhẫn nhục. – Đến thức tỉnh trong đêm tình mùa xuân. + Từ sự tác động của ngoại cảnh, đặc biệt là tiếng sáo, men rượu, khiến Mị hồi sinh, Mị nhận ra Mị còn trẻ (sự ý thức được về bản thân, về ngoại hình, nhan sắc), Mị muốn đi chơi (sự ý thức được nhu cầu đòi hỏi về mặt tinh thần). + Mị so sánh mình với bao người phụ nữ khác: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết”. Và cô gái ấy trở lại cái đau đớn khi nhận ra cuộc hôn nhân phi lí của mình. Nhắc lại điều đó, ý muốn tự tử của Mị lại trở lại. Hay nói cách khác, nghĩ đến nắm là ngón, đến cái chết lại là dấu hiệu cô Mị đã hồi sinh, nhận ra mình muốn chết là ý thức được về những nỗi thống khổ, là sự phản ứng lại trước số phận nghiệt ngã, là khao khát muốn được tự do. + Và Mị đã có những hành động, không phải vô tri, thói quen, mà là hành động của thức tỉnh. Trước tiên, Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đĩa cho đèn thêm sáng. Sau đó, Mị quấn lại tóc, lấy cái váy hoa chuẩn bị đi chơi, Mị đã bước đi theo tiếng gọi của tiếng sáo, của nhu cầu bản thân, Mị đang vượt qua những rang buộc, để sống thật với con người mình, khao khát của mình. + Nhưng A Sử về, A Sử ở đó như đại diện cho cường quyền, thần quyền, chặn đứng khát khao, nhu cầu của Mị, A Sử trói đứng Mị vào cột, thế nhưng A Sử không thể trói được tâm hồn Mị, Mị bị trói nhưng Mị vẫn vùng bước đi. | 1.5 | |
| – Hành động quyết liệt trong đêm mùa đông cứu A Phủ: + Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, Mị không cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Vô cảm với chính mình, Mị cũng chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. + Thế nhưng, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương mình rồi đến thương người trong Mị. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Và từ sự đồng cảm đó, lòng Mị dấy lên sự căm phẫn: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Để đi đến hành động cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã phải trải cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp. Nhưng tình thương A Phủ, sự đồng cảm với kiếp người cùng khổ đầy khốn nạn, thêm cả lòng căm phẫn, và sự thúc bách về mặt thời gian, cô gái đó đã có một hành động hết sức táo bạo, liều lĩnh: cắt dây trói để cứu A Phủ. + Hành động cắt dây trói là cắt đi cả cường quyền và thần quyền đè nén bấy lâu. Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, khoảnh khắc ấy, trong Mị trào lên niềm khao khát sống, lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. | 1.5 | |
Bình luận, đánh giá | – Ý kiến hoàn toàn chính xác và thuyết phục: Mị là con người thức tỉnh, thức tỉnh từ nhận thức đến hành động, và điều đó mang lại cho Mị một cuộc đời mới, có ý nghĩa và được làm một con người thật sự. – Bằng tài năng và một vốn từ phong phú, Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi diễn biến về tâm lí và hành động Mị trong quá trình thức tỉnh với tất cả sự thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị là nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã góp phần thể hiện giá trị nhân văn của truyện Vợ chồng A Phủ. | 0.5 |
Bài làm mẫu:
Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Mị trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một số phận, một cuộc đời như thế. Cô gái người Mèo chính là thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng con người thức tỉnh, con người đứng dậy đấu tranh để giành lại tự do, công bình và hạnh phúc.
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, là nhà văn có hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn nguời đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc (1954). Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc. Tác phẩm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời.
Con người thức tỉnh trong văn học là những nhân vật từng nếm trải nhiều cay đắng, tủi nhục và đau khổ; trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột, bị chà đạp, giày xéo mà trở thành con người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý thức về quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất công giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh” giàu ý nghĩa nhân văn.
Thành công đầu tiên phải kể đến là việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị trong tập truyện ngắn này. Khi sinh ra Mị đã bị mặc định là một món nợ, một cái giá phải trả cho hạnh phúc gia đình thiêng liêng mà cha mẹ Mị đã mượn của nhà Thống lí Pá Tra ngày trước. Quãng đời của người con gái ấy ở Hồng Ngài quả thật là một chuỗi ngày đen tối ở chốn địa ngục trần gian khi bị bắt làm “con dâu gạt nợ” cho nhà Thống lí.
Tưởng đâu đây sẽ là dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, nhưng đằng sau đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ của khát vọng sống, nói đúng hơn là sự bừng tỉnh sau bao đêm ngủ mê của số phận oái ăm, nhất quyết không chấp nhận thân kiếp tôi đòi, nô lệ.
Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, là những tháng ngày tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết thì thôi”. Nhan sắc, tuổi xuân của Mị bị tước đoạt, bị giày xéo, bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh năm. Lên núi hái thuốc phiện, bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để tước thành sợi. Có lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Bó đay ấy, tảng đá ấy như cái xiềng, cái xích, cái thòng lọng oan nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức mà trở nên tê liệt dần. Không nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa”. Mị “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Mị cam chịu “ở lâu trong cái khố, Mị quen khổ rồi”. Gần như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép duyên trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa/Bằng con chẫu chuộc thôi...”
Cảm thấy kiếp mình, thân phận mình như con trâu, con ngựa, con rùa, con bọ ngựa, con chẫu chuộc, có nghĩa là chén đắng cay của cuộc đời đã uống cạn, chỉ còn sống trong tê liệt, nhẫn nhục và cam chịu. Chẳng phải đời Mị đã lụi tàn?
Con người thức tỉnh được hồi sinh không chỉ với ngoại cảnh mà còn tự tâm hồn mình, ý thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát”, uống cho tan nỗi hận! Uống cho vơi đi bao đau khổ chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”, Mị “sống về ngày trước”. Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị "tai Mị nghe văng vẳng tiếng sáo”. Mị đã thật sự hồi sinh và hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm, Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng “đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết. Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. Mị thấy vô lí, bất công đến tàn nhẫn, đến cay đắng “bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.”. Mị với A Sử “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt. Tiếng sáo gọi bạn yêu đang “lửng lơ bay” ngoài đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh Mị đang “vùng vẫy” cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi nhục!
Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị sắp đi chơi. Hành động Mị ngang nhiên diễn ra trước mắt thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Mặc dù lúc mê lúc tỉnh, lúc khắp người “bị trói thít lại, đau nhức”, nhưng Mị vẫn nồng nàn tha thiết nhớ, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu, về hạnh phúc, lòng khao khát của Mị rất mãnh liệt. Đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tô Hoài rất tinh tế, sâu sắc, trăng vàng thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.
Mị có bị ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục không? Lần thức tỉnh cuối cùng của Mị chính là yếu tố quyết định của tác phẩm. Khi một người đàn bà vô cảm, chai sạn cảm xúc như Mị lại cảm thấy xót thương vô cùng cho A Phủ lúc nhìn thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã đen xám lại của A Phủ”. Sự xâu xé của lương tâm và lí trí mỗi lúc một mãnh liệt hơn, rồi Mị chợt thấy được bóng dáng của chính mình trong A Phủ để dẫn tới hành động cắt dây trói cho A Phủ. Cắt được cái dây trói ấy, cũng như cắt được sợi dây vô hình trói buộc Mị với nhà Thống lí, như xóa bỏ được áp lực thần quyền đè nén bấy lâu nay lên người Mị về con ma nhà Thông lí, sự bừng tỉnh vỡ òa trong niềm hạnh phúc giải thoát bản thân. Chạy theo A Phủ là bước trỗi dậy đầu tiên sau khi thức giấc đến tìm đến với cách mạng, đến với ánh sáng tự do, không còn kiếp nô lệ đọa đày.
Hành động của con người thức tỉnh là hành động tự phủ định, hành động tự giải thoát. Mị và A Phủ dìu nhau cùng chạy trốn đến Phiềng Sa khu du kích. Phiềng Sa là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và kháng chiến mới là đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A Phủ cũng là tự cắt dây trói để giải thoát mình. Như con chim sổ lồng, Mị từ bóng tối vươn tới ánh sáng, từ nô lệ tủi nhục mà giành được tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên chồng, rồi trở thành chiến sĩ du kích.
Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi biến thái về tâm lí và hành động Mị trong quá trình thức tỉnh với tất cả tình thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị là nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của truyện Vợ chông A Phủ.
Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 12 - Năm cuối ở cấp tiểu học, năm học quan trọng nhất trong đời học sinh trải qua bao năm học tập, bao nhiêu kì vọng của người thân xung quanh ta. Những nỗi lo về thi đại học và định hướng tương lai thật là nặng. Hãy tin vào bản thân là mình sẽ làm được rồi tương lai mới chờ đợi các em!
Nguồn : ADMIN :))Copyright © 2021 HOCTAPSGK